Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVI thường niên năm A

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVI thường niên năm A 

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XXVI thường niên – năm A
Lời Chúa:
 Ed 18,25-28; Pl 2,1-11; Mt 21,28-32
***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Tự do và long nhân lành của Thiên Chúa
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Dụ ngôn hai người con
4. Suy niệm của Noel Quession
5. Nói và làm (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Thuận và Nghịch (Trầm Thiên Thu)
7. Làm con thảo của Cha trên Trời (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
8. Sống như con Thiên Chúa: Điều kiện để được vào Nước Trời (Lm. Đan Vinh)
9. Hhành động tốt thắng câu nói hay (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Con cả (P. Trần Đình Phan Tiến)
11. Nói và làm (JM. Lam Thy ĐVD.)
12. Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
13. Nói và làm (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
14. Sám hối là khởi điểm (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
15. Ngôn hành như nhất (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
16. Cải thiện cuộc sống (Lm. Ignatiô Trần Ngà)
17. Thái độ vâng phục (R. Veritas)

18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
19. Các Ông nghĩ sao? (Fx Đỗ Công Minh)
20. Ai đáp lại lời Cha? (AM Trần Bình An)

 

 

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Ed 18, 25-28)

Ðây Chúa phán: “Các ngươi đã nói rằng: “Ðường lối của Chúa không chính trực”. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết”.

Bài đọc II (Pl 2, 1-5 {hoặc 1-11})

Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Ðức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau, chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô.

{Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong hoả ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.}

Tin Mừng (Mt 21, 28-32)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!” Nó thưa lại rằng: “Con không đi”. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi”. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất”. Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”.

[Mục Lục]

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm Lm FX Vũ Phan Long, ofm: TỰ DO VÀ LÒNG NHÂN LÀNH CỦA THIÊN CHÚA

1. Ngữ cảnh

Trong các giáo huấn luân lý, ngay từ đầu Đức Giêsu đã tuyên bố rằng, là những con người, chúng ta không được tỏ ra thụ động, dửng dưng, chúng ta phải cộng tác để có thể thuộc về Nước Trời. Người đã khẳng định rõ ràng rằng chúng ta phải có một sự công chính “dồi dào hơn” (5,20), chúng ta phải làm thánh ý của Chúa Cha (7,21), để được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn Kho tàng chôn giấu trong ruộng và Viên ngọc quý, Người cho thấy rằng Nước Trời xứng đáng được yêu cầu người ta dồn hết sức mà theo đuổi (13,44-46). Phêrô đã hỏi: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (19,27). Đức Giêsu không gạt bỏ câu hỏi về phần thưởng; Người hứa ban cho các môn đệ mộtphần thưởng gấp trăm và sự sống đời đời (19,29). Hành động đúng và dấn thân trọn vẹn là những điều cần thiết, và chúng ta có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa quảng đại nhìn nhận và chúc phúc. Bài dụ ngôn Những người thợ vườn nho bổ sung cho nguyên tắc trên đây ở điểm: chúng ta không thể khẳng định mộtquyền gì trước nhan Thiên Chúa. Chính vì thế có liên từ “bởi vì/quả thế” (gar) mở đầu cho bài[1][1].

Bài này được ngỏ với các môn đệ, với người Pharisêu, hay là nhắm đến các tương quan giữa Do Thái và Dân ngoại? Ngữ cảnh gần cho thấy rất rõ là Đức Giêsu nói với các môn đệ: trong các bản văn trước cũng như trong các bản văn tiếp sau, các thính giả là các môn đệ. Và chính là nhân mộtcâu hỏi rõ rệt của Phêrô mà Đức Giêsu kể dụ ngôn này. Có thể Người cũng nghĩ đến người Pharisêu hoặc toàn thể Israel, được tượng trưng bằng “những kẻ đứng đầu” lại thành “chót”? Rất có thể như thế, nhưng không có chi tiết nào trong bản văn bảo đảm như thế cả. Vậy phải giải thích dụ ngôn theo câu hỏi của Phêrô.

Nhân câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu đã nói về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi Người kể dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho. Dường như tâm trí Phêrô là tâm trí tính toán: phải tha mấy lần? Ông sẵn sàng tỏ ra quảng đại tối đa: tới bảy lần (con số chỉ sự hoàn hảo). Đức Giêsu đẩy đi xa hơn: Phải tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là cứ cố gắng hoàn hảo “hơn”. Trong thực tế, Đức Giêsu cho biết rằng người ta không thể dàn xếp các vấn đề quan hệ liên vị dựa theo kiểu khối lượng được.

Rồi trong hoàn cảnh hiện tại, Phêrô muốn biết những ai đã bỏ mọi sự để phục vụ Đức Kitô thì được thưởng thế nào. Hai vế của phương trình phải cân bằng: phục vụ và hy sinh bao nhiêu thì phần thưởng bấy nhiêu. Đức Giêsu nồng nhiệt trả lời và đảm bảo rằng họ sẽ được ban thưởng bội hậu. Thế nhưng câu hỏi của Phêrô sai chỗ và cho thấy có mộtthái độ sai lạc. Nước Thiên Chúa không dựa trên luật có qua có lại; trong Nước này, không có chuyện các công trạng cá nhân được đánh giá theo số giờ làm việc. Trước tiên, đây là vấn đề đón nhận mộtân huệ.

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (20,1-7);

2) Cách trả lương (20,8-12);

3) Ông chủ giải thích (20,13-15);

4) Kết luận (20,16a).

3. Vài điểm chú giải

- Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền (2): Một đồng quan là lương thông thường mộtngày làm việc vào thời Đức Giêsu. Ghi nhận về sự thỏa thuận này quan trọng để có thể đưa tới kết luận đầy kịch tính. Sách Mishnah tính là một người cần tối thiểu 200 quan một năm để có thể sống, tức giả thiết là một người làm công có thể tìm ra việc ít nhất 200 ngày một năm. Một quan có thể mua được từ 10 đến 12 ổ bánh mì nhỏ; 3 đến 4 quan thì mua được 12 lít lúa mạch (để làm được 15 ký bánh mì) hoặc một con chiên; 30 quan mua được một bộ quần áo nô lệ; 300 quan mua được một con bò. Theo giá đó, ta biết đời sống của một người làm công cũng khó khăn.

- Khoảng chín giờ sáng (3): Dịch sát là “Giờ thứ ba”. Mặc dù giờ pháp lý bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, người ta vẫn tính giờ kể từ khi mặt trời mọc. Do đó, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và giờ thứ mười mộttương đương với 9g, 12g, 15g và 17g. Ngày làm việc kết thúc vào khoảng 18g.

- bắt đầu từ những người vào làm sau chót (8): Cách trả lương như thế là bất thường. Nhưng câu truyện được xây dựng sao cho độc giả hiểu được lý do khiến những người thợ đầu tiên phải cằn nhằn.

- Này bạn (hetaire, 13): Hetairos là “người bạn đường”. Người ta thường dùng từ này để xưng hô với kẻ mà người ta không biết tên. Những người thợ làm giờ đầu đã không thưa gửi gì cả với ông chủ, nên ông chủ đã làm họ phải bẽ mặt khi bắt đầu câu trả lời bằng lời này. Ở đây hẳn là lời xưng hô này vừa toát ra sự tốt lành, vừa nhuốm màu trách móc.

- Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? (15): Dịch sát là “Hay mắt bạn xấu vì tôi tốt lành?”. Câu này là chìa khóa mở ra bài học của dụ ngôn. Đối với người Do Thái, căn cứ của tư tưởng, tức của những tâm trạng tốt và xấu, là trái tim; trái tim thông truyền các phản ứng của nó ra bên ngoài qua con mắt. Do đó, phẩm chất của con mắt cũng chính là phẩm chất của trái tim, hoặc của tâm hồn (x. 6,22; x. Mc 7,22; Cn 22,9; 23,6-7; 28,22).

4. Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu đã tạo ra mộtdụ ngôn với khung cảnh là việc chăm sóc vườn nho. Ông chủ nhà (oikodespotês) đi ra chợ thuê mướn thêm thợ, từ lúc đầu ngày, khi mặt trời mọc, cho đến khi chỉ còn mộtgiờ nữa là chấm dứt ngày làm việc.

* Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (1-7)

Ông chủ mời gọi mọi người ông gặp, những người ông gặp ngay lúc sáng sớm, cũng như những người ông gặp lúc trưa, lúc xế chiều, thậm chí lúc trời đã về chiều. Với những người được mướn đầu tiên, ông đã thỏa thuận với họ tiền lương thông thường một ngày làm việc là mộtquan (c. 2); với những người khác, ông hứa trả cho họ hợp lẽ công bằng, và hẳn họ hiểu là chỉ một phần đồng quan thôi (cc. 4-5); còn những người cuối cùng, ông sai họ đi làm vườn nho mà không nói minh nhiên về phần lương (c. 7). Thời gian làm việc của mỗi nhóm rất khác nhau. Thuê thợ vào hai giờ cuối ngày là chuyện lạ lùng, khiến thính giả chú ý. Có những tác giả, chẳng hạn Jeremias và Flusser, giải thích rằng cần phải thu hoạch nho trước khi những trận mưa thu đến. Nhưng bản văn không xác định là đang thu hoạch nho trong mùa thu; biết đâu thợ đang làm cỏ cho vườn nho vào mùa xuân? Chi tiết này muốn thính giả hay độc giả phải tự hỏi về khả năng lên kế hoạch của ông chủ và chờ đợi xem cách trả lương vào cuối ngày.

Tác giả dành một khoảng thời gian cho những người được mướn vào giờ cuối cùng. Ông chủ hỏi tại sao họ đứng đây không làm gì cả. Họ trả lời câu hỏi “thừa” này là không có ai mướn họ cả. Dĩ nhiên, vì chính ông chủ cũng thấy là họ không có việc (cc. 6-7). Mẩu đối thoại ngắn này nhắm làm cho thính giả cũng phải dừng lại với những người thợ này. Phải chăng họ quá lớn tuổi, hay là đau ốm? Phải chăng họ ngủ quên, nên hụt mất giờ thuê mướn thợ sáng sớm? Tác giả không cung cấp một chi tiết nào để trả lời các câu hỏi này. Ngài chỉ muốn thính giả để ý tới họ thôi.

Thính giả có thể cũng đã quen với hình ảnh ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; Ngài kêu gọi dân Ngài làm việc cho Ngài. Nhưng không có chỗ nào trong truyền thống kinh sư nói rằng ông chủ mướn thợ vào các giờ khác nhau. Do đó, dụ ngôn này vẫn giữ được tính độc đáo riêng.

* Cách trả lương (8-12)

Đến chiều (opsias genomenês), người ta trả lương. Đây là truyền thống của Kinh Thánh và Do Thái giáo (x. Lv 19,13; Đnl 24,14-15). Đến c. 8, “chủ nhà” (oikodespotês) đột ngột biến thành “chủ vườn nho” (kyrios tou ampelônos); chi tiết này cũng làm cho người ta nghĩ đến Thiên Chúa. Người quản lý (epitropos) xuất hiện chỉ để thi hành lệnh lạ lùng của ông chủ: trả lương trước cho những người làm giờ cuối cùng. Mục đích hẳn chỉ là để những người làm giờ đầu tiên thấy những người kia được nhận lương thế nào.

Những người đầu tiên đã làm mười hai giờ, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (c. 12). Những người cuối cùng chỉ làm có mộtgiờ mà thôi. Như thế, những người làm giờ đầu tiên đã phải làm dài giờ mà còn phải chịu cái nóng nực, còn những người làm giờ cuối cùng đã làm ít giờ lại được hưởng cái mát mẻ của buổi chiều. Nếu cứ theo cách tính toán chính xác thông thường, những người cuối cùng hẳn là chỉ được nhận mộtphần mười hai số lương của những người đầu tiên, nghĩa là mộtphần mười hai của mộtquan. Thế nhưng với những người thợ cuối cùng, dù ông chủ không hứa gì cả, ông đã trả cho họ trọn một quan. Đây là điều hoàn toàn bất ngờ, trái với sự tính toán thông thường.

Vậy những người thợ đầu tiên nghĩ rằng họ sẽ được nhận nhiều hơn, và có lẽ các thính giả cũng nghĩ như vậy. Thế nhưng mỗi người cũng chỉ nhận được một quan.

* Ông chủ giải thích (13-15)

Do đó, ông chủ đã khiến những người đầu tiên càm ràm phản đối: dường như là ông chủ đã vị phạm cách võ đoán nguyên tắc căn bản về công bình khi coi những người chỉ làm có một giờ ngang hàng với những người suốt ngày phải chịu nặng nhọc và nắng nôi. Ông chủ đã trả lời trả lời cho người phát ngôn của nhóm thứ nhất, với lời thưa gửi mở đầu là “bạn” (hetaire). Trước tiên, ông bảo vệ cách cư xử của ông dựa trên nền tảng là công bình hình thức, theo những gì đã thỏa thuận (c. 13). Thế thì người phản đối chỉ có thể cầm lấy phần của mình mà về nhà. Ông chủ cũng bảo vệ cách cư xử của mình khi nói đến quyền của người chủ là được tự do định đoạt về của cải của mình (c. 15). Cuối cùng, ông nêu một câu hỏi cho thấy động lực chân thật thúc đẩy ông ứng xử như thế: ông tốt bụng, cho dù ông không buộc phải hành động như thế. Phải chăng sự ghen tức đã thúc đẩy những người thợ đầu tiên phản đối ông?

Như vậy, ông đã trả lời để mở rộng cái nhìn hạn hẹp của họ và nhắc họ nhớ đến mộtloạt những yếu tố khác cũng quan trọng đối với việc lượng định lối xử sự của ông. Ông không nói với đám đông, nhưng nói với riêng mộtngười. Các tôi tớ không được để cho mình bị ảnh hưởng bởi ý kiến của đám đông, nhưng mỗi người phải tự mình cân nhắc quan điểm của ông chủ.

* Kết luận (16a)

Có những tác giả coi câu này như câu cốt yếu của dụ ngôn. Nhưng thật ra những người đầu đâu có trở thành chót (trừ chuyện nhận lương); họ tất cả đều được hưởng mộtđồng lương như nhau. Đối với các người thợ, chỉ tiền bạc mới đáng kể. Câu này không được rút ra từ dụ ngôn, mà chỉ được thêm vào vì tương tự với đề tài. Trong thực tế, câu châm ngôn này nói đến sự đảo ngược các chỗ, còn dụ ngôn thì nói đến sự đối xử đồng đều.

+ Kết luận

Dựa trên c. 15, chúng ta hiểu được chiều hướng của câu truyện: nói đến lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể trong đời sống của Đức Giêsu. Giống như ông chủ vườn nho cư xử với những người thợ cuối cùng, Đức Giêsu cư xử tốt với những người không có một chuẩn mực nào mà đòi hỏi Thiên Chúa. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu bảo vệ những kẻ tội lỗi, những người không tuân giữ Lề Luật; những phụ nữ và những người nghèo, những người vì nhiều lý do, không giữ được trọn Lề Luật; những bệnh nhân bị loại khỏi cộng đồng; những người thuộc đám đông dân chúng, không biết Lề Luật là gì. Vậy bài dụ ngôn không chỉ kể về lòng nhân ái của Thiên Chúa, nhưng còn giải thích lối cư xử của Đức Giêsu đối với dân chúng.

Chúng ta không thể khẳng định mình có mộtquyền hay mộtgiá trị gì trước nhan Thiên Chúa; không thể xác định được mộtsự tương ứng cứng ngắc giữa phần ta đóng góp và phần thưởng từ phía Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng, nhưng Ngài vẫn giữ lại cho mình quyền tự do tuyệt đối; và trên nền tảng là lòng nhân lành hoàn toàn tự do của Ngài, Ngài có thể ban tặng vượt xa mọi công trạng.

Hành động và các công trạng của con người không bao giờ thiếu ý nghĩa; chúng vẫn luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa, nhưng không thể áp đặt cho Ngài bất cứ quy tắc nào về ban thưởng, cũng không thể giới hạn tự do của Ngài trong lối hành động cũng như lòng nhân lành của Ngài. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu lưu ý chúng ta là không được tính toán với Thiên Chúa, và quy định cho Ngài những gì Ngài phải ban cho chúng ta và người khác.

5. Gợi ý suy niệm

1. Nếu tác giả (Đức Giêsu) muốn cống hiến mộtbài học về công bình xã hội, thì hẳn là Người đã thất bại, bởi vì câu truyện không hề tôn trọng các luật lệ sơ đẳng nhất về sự bình đẳng. Thật ra tác giả không có ý giới thiệu mộtông chủ thông thường, ban thưởng theo những đóng góp đã bỏ ra, nhưng là một ông chủ đặc biệt, có lối xử sự vượt quá kiểu tương quan bình đẳng. Giống như nhân vật chính của bài dụ ngôn, Thiên Chúa xử sự như thế trong tương quan với loài người, và theo đường lối Ngài, Đức Kitô cũng xử sự như thế khi ban ơn cứu độ cho loài người.

2. Thiên Chúa gọi mọi người đi vào vườn nho của Ngài, vào các thời điểm khác nhau. Những người Do Thái được gọi trước, nhưng rồi mọi người đều được chiếu cố, dù có lúc đã tưởng mình bị bỏ quên (“Vì không ai mướn chúng tôi”, c. 7). Bài dụ ngôn không nhấn mạnh đến sự quý chuộng riêng ông chủ tỏ ra với mộtai, nhưng nhấn trên những quyền bình đẳng mà mọi người đều có trước lời mời và trước phần lương được ban. Nếu trước đây ông chủ đã hoặc có thể tỏ ra thiên vị, thì từ nay không còn như thế nữa.

3. Chúng ta không được so đo về các ân huệ của Thiên Chúa và than trách Ngài vì tưởng rằng chúng ta được nhận ít. Chúng ta phải chu toàn nhiệm vụ và đón nhận với lòng biết ơn những gì Ngài ban cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng tự do và lòng nhân lành của Ngài, và vui mừng khi thấy bất cứ dấu chỉ nào cho thấy lòng nhân lành của Ngài, cho dù không liên hệ đến chúng ta mà liên hệ đến người thân cận.

4. Ông chủ không ban phát đồng quan cách ngẫu hứng, cho ai nhiều ai ít tùy hứng. Ông ban cho mọi người điều họ cần, và ông ban phát rộng rãi tùy theo nhu cầu của người ta. Ông không gây thiệt hại cho ai cả, nhưng lòng tốt thúc bách ông ban tặng điều cần thiết để sống, cho cả người không được may mắn. Bài học của dụ ngôn vẫn tiếp diễn trong lòng cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, trong đó vẫn vang lên lời kêu gọi sống khiêm nhường, sống tế nhị, quảng đại, như Đức Giêsu đã nhiều lần ngỏ với các môn đệ Người (x. 18,1tt; 20,22).

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu …

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người.

Is 55: 6-9

Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha và cứu thoát, vì tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.

Tv 145 (144): 2-3, 8-9, 17-18

Trong đoạn trích Thánh Vịnh này, tác giả ca ngợi tấm lòng từ bi nhân hậu của Chúa đối với muôn loài Ngài đã dựng nên, nhất là những ai thành tâm cầu khẩn Ngài.

Pl 1: 20-24, 27

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang sống trong cảnh giam cầm, bị giằng co giữa đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh nhân phó thác số phận của mình vào lòng nhân hậu của Chúa.

Mt 20: 1-16

Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.

BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)

Đoạn trích dẫn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến cho những tù nhân ở Ba-by-lon mong chờ ơn giải thoát, nhưng vài người nghi ngờ và nhụt chí vào khoảng những năm 545-540 trước Công Nguyên. Trong bối cảnh như vậy, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (ch. 40-55), khẩn thiết loan báo những chủ đề hy vọng; ông nhấn mạnh niềm tin vào một vị Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một vị Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn.

1. Thiên Chúa rộng lòng tha thứ:

Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải: “Hãy tìm Chúa, khi Người còn cho gặp, kêu cầu đi, lúc Người ở gần bên”. Phải chăng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh dân Ngài trong cảnh lưu đày còn gần gũi hơn khi Ngài còn ngự trị giữa họ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên vào lúc mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách diễn tả: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).

Hoán cải không gì khác hơn là tránh xa khỏi điều gian ác: “Kẻ bất lương, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người gian ác, hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng chung nhịp bước với cuộc trở về với Thiên Chúa. “Hãy trở về với Chúa, với Thiên Chúa chúng ta, Người sẽ xót thương vì rộng lòng tha thứ. Động từ “tha thứ” nầy “được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ”, vì sự tha thứ nầy không có cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người.

Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là“Trời cao hơn đất thấp chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy”. Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở dưới tận chốn đất thấp. Đường lối của Ngài cao vời khôn ví làm thế nào đầu óc nhỏ bé của phàm nhân có thể hiểu được. Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào được tha thứ, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết rằng Ngài vô cùng độ lượng, rộng lòng tha thứ và sẵn sàng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ cất bước trở về với Ngài, cũng như Ngài sẵn sàng trả công bội hậu cho con người vượt quá công sức của họ.

2. Thiên Chúa siêu việt và toàn năng.

Ngôn sứ I-sai-a kết thúc sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng siêu việt và toàn năng. Vị ngôn sứ kết nối sự cao cả của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mỏng dòn, bởi vì tất cả chúng ta là những tội nhân, còn Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài ôm ấp trong lòng những tư tưởng cứu độ. Các tác giả thánh vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa, như Tv 145 (144) mà Phụng Vụ mời gọi chúng ta cất cao lời chúc tụng Đức Chúa hôm nay: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng, Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145: 3). Đây là ‎ý tưởng truyền thống mà Đức Giê-su dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

THÁNH VỊNH 145 (144): 2-3, 8-9, 17-18

Đây là một thánh vịnh cá nhân theo mẫu tự có nhiều điểm nối kết với Tv 111 cũng theo mẫu tự (so sánh 111: 2-4 và 145: 5-8). Thánh vịnh này ca tụng Đức Chúa là vua oai phong vinh hiển (cc. 4-13a), thành tín và nhân hậu (cc. 13b-20). Đoạn trích dẫn của Tv 145 (144) được cấu trúc như sau:

A. Tác giả ước nguyện ca tụng Thiên Chúa suốt cuộc đời mình (cc. 2-3):

2. “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa. Và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời”: Theo cùng ý tưởng với Tv 146: 2: “Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời”3. “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu”: Thánh vịnh 96: 4 cũng đưa ra một mời gọi như vậy: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng, khả tôn khả úy hơn các chư thần”.

Tác giả nêu lên lý do tại sao, bởi vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu với hết mọi loài Ngài đã dựng nên (cc. 8-9) và vì Ngài thân cận với những ai thành khẩn kêu cầu Ngài (cc. 17-18). Đây là hai phẩm tính nổi bật của Thiên Chúa mà tác giả đã nghiệm thấy trong lịch sử của dân Ngài và trong cuộc đời của chính tác giả.

B. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu đối với mọi loài Ngài đã dựng nên (cc. 8-9):

8. “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương”: Ám chỉ đến kinh nghiệm của ông Mô-sê sau những năm tháng được thân cận với Thiên Chúa: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu từ và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”(Xh 34: 6). 9. “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên”: Tác giả sách Khôn Ngoan cho chúng ta một giải thích thật cảm động về tấm lòng nhân hậu giàu lòng xót thương của Chúa như sau: “Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát dính bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lối loài người, để họ còn ăn năn sám hối. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với hết mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11: 22-26).

C.Chúa đặc biệt ở gần bên những ai thành tâm cầu khẩn Ngài (cc. 17-18).

1. “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa”: Sách Đệ Nhị Luật đã diễn tả sự công minh của Thiên Chúa: “Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo, vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay. Chúa tín thành, không mảy may gian dối, Người quả là chính trực công minh” (Đnl 32: 4). 17b. “Đầy yêu thương trong mọi việc Người làm”: Mọi công việc Chúa làm: công trình tạo dựng và công trình cứu độ, đều chan chứa tình yêu thương của Ngài. 18a. “Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa”: Ông Mô-sê đã quả quyết với dân Thiên Chúa: “Phải, thử hỏi có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4: 7). Trong bài đọc I, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị cũng lên tiếng kêu mời dân lưu đày: “Hãy tìm kiếm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở gần bên” (Is 55: 6), bởi vì“Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm hồn thất vọng ê chề” (Tv 34: 19).18b. “Mọi kẻ thành tâm cầu khẩn”: Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng dạy một chân lý như thế:“Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta” (Gr 29: 13) và còn đưa ra một hiệu quả tốt đẹp như sau: “Nếu ngươi kêu: ‘Đức Chúa hằng sống’ mà thề cách trung thực, ngay thẳng và công chính, thì chư dân cũng lấy danh Người mà cầu phúc cho nhau; và nơi Người, chư dân cũng sẽ hãnh diện” (Gr 14: 2).

BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)

Thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Ở đây, các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, vì thế một đám thính giả đông đảo lắng nghe thánh nhân chắc hẳn đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, kể từ khi đặt chân đến thành Phi-líp-phê, thánh nhân luôn luôn dành cho các tín hữu này một ân tình tròn đầy. Như chúng ta biết thánh nhân không muốn đón nhận sự trợ giúp của bất kỳ cộng đoàn tín hữu nào ngỏ hầu Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng là một ân ban nhưng không. Tuy nhiên, thánh Phao-lô chỉ đón nhận sự giúp đỡ của các tín hữu Phi-líp-phê, vì thánh nhân muốn bày tỏ lòng ưu ái của Ngài danh cho họ.

1. Hoàn cảnh của thánh Phao-lô khi viết thư gởi tín hữu Phi-líp-phê:

Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê – chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn bức thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp – chứa đựng một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và trọn một cuộc đời gắn bó vào Đức Ki-tô. Vốn tính khí bộc trực, ấy vậy những lời khuyên bảo của thánh nhân lại nồng nàn chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.

Khi thánh Phao-lô viết bức thư nầy, ngài đang sống trong cảnh giam cầm, có thể ở Ê-phê-sô, vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Kitô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài, thánh nhân chỉ còn biết nguyện ước. Sự giằng co đôi đàng, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã mà thánh nhân có quyền chọn lựa nhưng là thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu đoạn thư trích dẫn: “Đức Giê-su sẽ bày tỏ quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống, hay tôi chết”.

2. Chết là một mối lợi

Bị giằng co giữa hai giải pháp khả dĩ: chịu chết hay được phóng thích, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Đối với tôi chết là một mối lợi…ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều nầy tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích của cuộc đời mình: “sống là Đức Kitô”. Ở bên kia cái chết, thánh nhân được nên một với Đức Kitô cách trọn vẹn hơn.

Nếu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thì thánh Phao-lô hoàn thành tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa…Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).

Trong đoạn trích thư Cô-rin-tô nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc“Nhị Nguyên thuyết” của tư tưởng Hy lạp; tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của triết lý Hy lạp này, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, Vị Tông Đồ dân ngoại ca ngợi thân xác nầy là“Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô sau khi chết; tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã khởi sự ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Kitô hữu vốn là đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh cư ngụ cùng với chúng ta. Thần Học của Giáo Hội tiếp nối thần học của thánh nhân trên lộ trình nầy. Cái chết không tạo nên một sự đứt đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Kitô.

3. Niềm say mê loan báo Tin Mừng

Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em. Vả lại, thánh nhân luôn luôn mang trong lòng mình niềm say mê loan báo Tin Mừng đến mức thánh nhân xem việc loan báo Tin Mừng như một trách nhiệm mà mình buộc phải chu toàn: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Vì thế, lời căn dặn đầy tâm huyết sau cùng của thánh nhân gởi đến họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô”.

TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)

Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy khép lại một loạt những dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố gắng làm cho hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su có chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý‎ ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp hướng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra một bài học.

Ở đây, điều thú vị của câu chuyện hệ tại ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm. Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” như lời Đức Chúa phán qua vị ngôn sứ của Ngài trong Bài Đọc I.

1. Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân lộc của Ngài

Vì thế, thật là vô l‎ý nếu dụ ngôn nầy được tiếp cận theo nhãn quang trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.

Tuy nhiên, trước tiên chúng ta nên khảo sát cách hành xử của con người với con người trong giao tiếp xã hội. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra rất gần gũi hơn với thế giới của chúng ta trong thời khủng hoảng công ăn việc làm, một thế giới đang quần quại sống trong nỗi đau của đa số người đang cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Suốt ngày, họ đứng đó mong chờ bất kỳ ai thuê họ bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm cho gia đình. Ông chủ trong Tin Mừng năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy, chúng ta cảm thấy một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được đầy đủ tiền công nhật để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng nhân ái của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một đồng, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.

2. Sống trong tư thế sẵn sàng:

“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong tâm trạng nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ cũng đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người khác. Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4: 26), không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận Mặc Khải của Ngài.

3. Nổi bất bình của những thợ đầu tiên

Những người thợ làm việc ngay từ tảng sáng sớm ngạc nhiên trước tiền công mà ông chủ trả: ông trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc khí trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng như thiêu như đốt! Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng trong đó người con cả công phẩn trước cách cư xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu cách cư xử của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng của tình phụ tử.

Ông chủ trả lời với một trong những người bất bình: “Nầy bạn”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nhẹ nhàng quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy cũng một cách như thế:“Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm!” (Mt 26: 50). Vị vua cũng quở trách một trong những khách vào dự tiệc cưới theo cùng một cách như vậy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22: 12).

4. Công bình và nhân ái:

Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ là mình được gọi làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã vất vã nhiều trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt đến từng chấm từng phết nên khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái”.

Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Kitô hữu gốc lương dân là những người đến sau lại được gọi gia nhập Nước Trời và được hưởng vô vàn những ân lộc mà Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Vì thế, dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho những Ki-tô hữu gốc lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.

Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ ở vào những giờ phút cuối cuộc đời mình. Ví dụ cảm động nhất không phải là ví dụ của tên gian phi sám hối đấy sao? Cả một đời gian ác nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su:“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… “. Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những “người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những “người công chính” hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.

“Hôm nay”: Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.

“Về sau”: Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.

“Nó hối hận”: Nơi đây Matthêu không dùng động từ “thống hối” (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).

“Vâng, thưa Ngài”: Tiếng “Ngài” đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.

“Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa”: Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: “Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?”, nghĩa là: “Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác” (Targ. Hi 41, 3).

“Theo đàng công chính”: Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.

KẾT LUẬN

Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.

2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.

3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.

4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái “lợi” (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.

5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 4. Suy niệm của Noel Quession

Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”

Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, “các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những “kẻ cầm quyền” ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.

Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử” về cuộc khổ nạn.

Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.

Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: “Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?”

Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!”. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi

Bạn nghĩ gì về điều này?.

Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.

Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, “hoán cải “. Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.

Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng “đang trở thành”.

Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói’ tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.

Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?

Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?

Họ trả lời: “Người thứ nhất”

Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.

Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu’ nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.

Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…” mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: “nói” không quan trọng bằng “làm”. Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Gioan 3,18).

Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.

Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. “Tôi bảo thật các ông!”. Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.

Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?

Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.

Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.

Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. “Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không “thấm nước”. Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì”.

Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?

Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. “Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng “các ông”? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?

Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!

Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.

Trong lúc dụ ngôn “hai người con” nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?” (Mt 21,25).

Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.

Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.

Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!”. Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động” mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi”. Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?

Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19).

[Mục Lục]

Bài 5. NÓI và LÀM
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu đã rao giảng Nước Thiên Chúa, Ngài muốn biến trần gian trở nên Nước Trời. Chính vì thế, Ngài đã mời gọi các tông đồ, các môn đệ đi theo Ngài để Ngài giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Trời. Chúa muốn qui tụ, cứu độ mọi người.Ai đón nhận và tích cực thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, biến trần gian, thế giới trở nên Nước Thiên Chúa thì người ấy thuộc về Chúa, và là con cái của Ngài.

Hôm nay, Chúa Giêsu đem ra một dụ ngôn nữa để dạy dỗ các người Pharisêu,Kinh sư và Biệt phái, đồng thời cũng nói lên quan điểm, lập trường của Ngài về những người được cứu rỗi. Dụ ngôn này, được Chúa Giêsu đặt vấn đề theo thể văn đối thoại, đòi những người nghe phải trả lời, để một đàng gây chú ý hào hứng, vừa dễ dàng đánh đổ đối phương bằng phương pháp dĩ độc trị độc, gậy ông đập lưng ông (Mt 21, 31 ). Điều này, trong Cựu Ước, chúng ta đã đọc thấy nơi sách 2 Samuen chương 12, 1-14. Thực tế, hai người con, chúng ta đã đọc thấy trong dụ ngôn ‘người con hoang đàng’, ở đây được hiểu là dân Do Thái và dân ngoại giáo, tuy nhiên trong dụ ngôn này được hiểu về các thượng tế, luật sĩ, biệt phái, các người thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Tất cả đều bình đẳng trước Thiên Chúa và cùng được Chúa yêu thương mời gọi làm vườn nho cho Chúa. Giả sử, có sự phân biệt, bất bình đẳng bởi vì công việc của mỗi người sẽ làm đối với Lời Chúa mà thôi. Tin Mừng cho hay người con thứ nhất, Cha bảo nó đi làm, nó nói không đi nhưng sau hối hận, nghĩ lại rồi đi. Người con thứ nhất tượng trưng cho những người tội lỗi, lúc ban đầu đã không đi vào con đường ngay chính, con đường thật, sau hối cải, ân hận đi vào con đường ngay chính. Người con thứ vâng dạ ‘nói đi’, nhưng lại không đi. Người con này ám chỉ các chức sắc Do thái lúc đó, lúc đầu họ luôn trung thành vâng theo và đi vào con đường Cựu Ước. Nay, những lời cựu Ước được thực hiện thì họ lại không đi vào. Điều quan trọng dụ ngôn này muốn dạy chúng ta là Hành Động, chứ không chỉ Nói suông. Làm chứ không chỉ Nói. Và như vậy, người con thứ nhất đã đạt được yêu cầu. Thánh Matthêu trong dụ ngôn này còn cho hay hai hạng người thu thuế và gái điếm, đều là những con người tội lỗi nhưng họ đều vào được Nước Trời vì họ đã hoán cải và tin. Tin Mừng cũng nói đến kẻ trước người sau không chỉ theo nghĩa thời gian nhưng còn là thay thế chiếm chỗ v.v… Thánh Gioan Tẩy Giả vừa là người công chính, vừa là người thi hành sứ vụ giúp con người, loài người, nhân loại dọn lòng đón Đấng công chính. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi mọi người hoán cải vì Nước Chúa đã gần đến. Ngài đã cương quyết, mạnh mẽ cảnh giác những người biệt phái và bè Xađôc, nhưng họ đã không nghe ngài và cũng không chịu để ngài thanh tẩy.

Chúa Giêsu đã rất gắt gao với những người coi mình là đạo đức, thánh thiện, công chính bằng việc họ nói mà không làm. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư. Họ nói nhiều, giả hình, giả bộ, đạo mạo bề người, nhưng trong lòng đầy gian tà, đúng như Chúa nói : ‘mồ mả tô vôi’. Điều này cũng đang đúng với nhân loại ngày nay, khi mà có rất nhiều người nói một đàng làm một nẻo. Có những người chỉ mang danh Kitô nhưng thực ra họ không nghe, không thực thi Lời của Chúa. Chúa Giêsu đã có lần nói: “Không phải những ai nói’ lạy Chúa, lạy Chúa ‘ là được vào Nước Trời nhưng họ còn phải thực thi Lời Chúa’ (Mt 7, 21). Chúa luôn nói với chúng ta : Hôm nay con đi làm vườn nho cho Ta… Đừng cứng lòng (Tv 94, 7-8).

Xin mượn lời của Viện phụ Grégoire Zufferey để kết luận bài chia sẻ sáng nay : “Chỉ có người duy nhất nói tiếng vâng bằng miệng và nói cùng một tiếng vâng ấy bằng hành động của mình, bằng những cái nhìn của mình, bằng những tương quan luôn thấm đẫm sự thật và lòng tế nhị, bằng những lúc thinh lặng, bằng cả con người mình… Chỉ có một người duy nhất nói tiếng vâng bằng lời nói và việc làm của mình: đó là Đức Giêsu Kitô.

Người thưa : vâng, thưa Cha, con sẽ đi làm việc trong vườn nho của Cha dưới đất.Bằng cuộc nhập thể của Người, bằng cuộc sống và cái chết và sự phục sinh của Người, hành động của Người như là một tiếng xin vâng thường trực đối với ý Cha của Người.Về phần chúng ta, chúng ta thưa vâng với mệnh lệnh thánh hóa ngày Chúa nhật, ngày của Chúa… Đôi tay chúng ta tự động chắp lại để cầu nguyện, đôi tay chúng ta, trong Thánh Lễ, đưa ra để trao hay nhận một cử chỉ chào bình an. Nhưng hãy coi chừng, qua những cử chỉ ấy, chúng ta cam kết từ chối bo bo giữ lại của cải hay đặc ân nào đó. Những cử chỉ ấy nhắc cho ta nhớ rằng không thể từ chối đưa tay ra giúp đỡ bất cứ người nào ! Để sống có thủy có chung, phải là những bàn tay biết phát minh những cách chia sẻ, những bàn tay chịu đi tới chỗ dính đồ dơ bẩn, mà chính nhờ vậy mà được giữ gìn trong trắng”.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết Chúa yêu thương chúng con bằng một tình yêu cao vời vô giá. Chúa yêu chúng con bằng tất cả con người của Chúa. Mỗi người chúng con không chỉ là một con số, nhưng tất cả chúng con đều có chỗ trong trái tim yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui, đem ơn cứu độ đến cho người khác, bởi vì ơn cứu độ của Chúa trải rộng đến mọi người. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Người con thứ nhất ám chỉ những hạng người nào ?
2. Người con nào đã làm theo ý của Cha ?
3. Chúa Giêsu muốn con người xây dựng cái gì ở trần gian ?
4. Muốn vào Nước Trời phải làm gì ?
5. Người con thứ có làm theo ý Cha không ? Nó ám chỉ đến hạng người nào
 ?

[Mục Lục]

Bài 6. Thuận và Nghịch
Trầm Thiên Thu

Thuận và nghịch là hai trạng thái đối lập, trái ngược nhau. Trạng thái đối lập này có thể là tốt hoặc xấu, tùy trường hợp. Có những trường hợp thuận mà lại nghịch, gọi là thuận-lý-nghịch; có những trường hợp nghịch mà lại thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này, ta có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B cũng tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B sẽ giảm N lần (chia cho N).

Khi nói về “tội phạm tới Chúa Thánh Thần”, loại tội không được tha cả đời này và đời sau, Chúa Giêsu có nói điều liên quan tình trạng thuận và nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Mt 12:30; Lc 11:23).

Giữa con người với nhau cũng có sự thuận và nghịch. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Đó là gì? Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ. Hai người “hợp” nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người “không hợp” nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng rất ngột ngạt. Nếu đối nghịch nhau thì “chiến tranh” rất dễ bùng nổ.

Người phàm với nhau mà đối nghịch đã là nguy hiểm rồi, huống chi là đối nghịch với Thiên Chúa. Ấy thế mà ngày xưa, dân chúng đã dám nói phạm thượng: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng” (Ed 18:25). To gan và lớn mật hết sức, liều lĩnh thật, đâu kém gì Ông Bà Nguyên Tổ ngày xưa!

Thiên Chúa đặt vấn đề thẳng thắn: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết” (Ed 18:26-28). Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, chắc hẳn chúng ta chẳng thể nói được nửa lời. Cái chết là thất bại lớn nhất của nhân loại, chính tội lỗi khiến chúng ta phải chết (Rm 5:12; Rm 5:21), chứ Thiên Chúa tốt lành không bắt chúng ta chết.

Dù chỉ là bụi đất (St 3:19), chẳng đáng chi cả, vậy mà phàm nhân chúng ta dám “chọc giận” Thiên Chúa, thậm chí còn dám phản nghịch Ngài (vì cứ phạm tội còn hơn cơm bữa). Tuy nhiên, Ngài không chấp “lũ trẻ con”, thế nên Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm (Tv 8:5), đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế” (2 Mcb 6:14). Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn cứng đầu thì hết đường thoát: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi” (Lv 26:18). Đáng sợ quá, lạy Thiên Chúa của chúng con!

Khôn sống, mống chết. Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5). Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện có lợi cho chính chúng ta mà thôi, chứ đối với Chúa chẳng “xi-nhê” gì. Vâng, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta nhận lỗi mà thân thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:9).

Hứa thì phải chấn chỉnh cách sống với nỗ lực hết sức, chứ không chỉ hứa suông. Chúa biết chúng ta có họ hàng với Cuội nên “lẻo mép” mà “hứa lèo” lắm. Thực sự Ngài không chấp, nhưng Ngài lưu ý là chúng ta có nỗ lực hết sức hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được” (Tv 130:3). Tuy nhiên, đừng “được đằng chân lân đằng đầu”, cũng đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới. Không khéo chúng ta lại lợi dụng lòng thương xót của Ngài đấy!

Biết sám hối chân thành là biết liên kết với Thiên Chúa. Biết mình “nghịch” thì cần chỉnh sao cho “thuận” với Ngài, càng sớm càng tốt. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau” (Pl 2:1-2). Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô (Ga 17:21-23).

Thực tế chưa được như vậy, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu”, người thì “bới bèo ra bọ”, họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi”, vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa”, thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, Chúa chẳng “xơ múi” gì đâu! Thánh Phaolô cũng đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:3-5). Khó lắm, vì thế mà luôn phải cố gắng “chết” triền miên!

Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2:6-9). Chúng ta đã nghe đi nghe lại điều này nhiều lần rồi, thế nhưng đã mấy lần chúng ta “giật mình”, hay là cứ nghe tai này rồi qua tai kia? Chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và tội với tha nhân!

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế mà Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:10-11).

Nói tới tình trạng thuận và nghịch thì phải có hai đối tượng. Ví dụ: Đất trời có âm và dương, nam châm có âm và dương, nhân loại cũng có âm và dương (nữ và nam). Âm và dương là hai thái cực. Nhưng âm và dương là để hài hòa chứ không để đối lập nhau. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai con người trái ngược nhau: Dụ ngôn hai người con. Một thuận, một nghịch. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta.

Một hôm, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về “quyền hành”. Chúa Giêsu thản nhiên kể chuyện rằng một người cha nọ có hai con trai. Ông bảo người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi”. Nó cãi ngay lập tức. Nhưng sau đó, nó hối hận nên lặng lẽ đi làm. Ông cũng đi bảo người con thứ hai đi làm. Nó ngoan ngoãn vâng lời ngay, nhưng rồi nó lại không đi.

Chúa Giêsu hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21:31a). Họ trả lời ngay: “Người thứ nhất” (Mt 21:31b). Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta, chắc hẳn mỗi chúng ta cũng dễ dàng trả lời được như vậy. Không gì hóc búa! Và Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21:31c). Mèn ơi! Nghe chi mà “sốc” quá chừng! Nhưng đó là sự thật, rất thật. Ngài biết họ đang ngẩn ngơ như chú Tàu nghe kèn, nên Ngài giải thích luôn: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông KHÔNG TIN ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại TIN. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21:32).

Đức Giêsu đã xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy” (Ga 14:23-24). Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, tất nhiên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do nào. Chữ YÊU ngắn gọn mà bao la quá đỗi! Có khi chúng ta là người con thứ nhất, có khi chúng ta lại là người con thứ hai. Lúc thuận, lúc nghịch. Biến hóa thất thường. “Cái tôi” to lớn và hung dữ lắm, do đó phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã cảm thấy lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:27).

Như Thánh Gioan Tẩy Giả, ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết dẹp bỏ “cái tôi” và luôn tâm niệm: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi” (Ga 3:30), để Danh Chúa được tỏa sáng mọi nơi, để Nước Chúa hiển trị, và để Ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lạy Thiên Chúa, xin “giữ gìn chúng con như thể con ngươi, xin thương che chở chúng con dưới bóng Ngài” (Tv 17:8), và xin giúp chúng con biết “thuận” với mọi người và “nghịch” với tội lỗi, để chúng con xứng đáng là con cái của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 7. LÀM CON THẢO CỦA CHA TRÊN TRỜI
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Văn hóa Á Đông giúp các Ki-tô hữu Á Đông hiểu giáo huấn của Đạo Chúa một cách dễ dàng hơn vì truyền thống Á Đông và Giáo Lý Công Giáo đều rất coi trọng những giá trị của Gia Đình, nhất là sự hiếu thảo của con cái đối với ông bà cha mẹ. Trong gia đình Việt Nam, người con hiếu thảo là người con biết nghe lời ông bà cha mẹ mà kính trên nhường dưới, sống thuận hòa với người trong gia đình và thân ái với người xung quanh cũng như hữu ích cho xã hội cộng đồng.

Trong đạo Công Giáo, người Ki-tô hữu hiếu thảo thực hiện (thi hành) thánh ý của Thiên Chúa là Cha. Thánh ý của Cha là con cái đáp lại lời đề nghị của Cha là đi làm trong vườn nho của Người, tức là xây dựng một xã hội công bình và yêu thương (mời đọc lại bài SLCHN Chúa Nhật XXV TNA), là xây dựng Nước Thiên Chúa (hay Nước Trời) là Vương Quốc của Chân Lý và Tình Yêu trong trần gian này. Trong việc thi hành Thánh ý của Cha, chúng ta có một tấm gương tuyệt vời là Chúa Giê-su Ki-tô, “Con Yêu Dấu của Cha”, Người đã đến trần gian để thực thi Thánh Ý của Cha, cho dù đã phải chết trên thập giá.

II. LẮNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 18,25-28): Nếu kẻ gian ác tử bỏ điều dữ nó đã làm, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình.

2.2 Trong bài đọc 2 (Pl 2,1-11): Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giê-su.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 21,28-32): Nó hối hận, nên lại đi. Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Đấng có đường lối chính trực và ngay thẳng. Đó là những người tội lỗi bất lương ăn năn trở lại thì sẽ được cứu sống (bài đọc 1).

* Là Chúa Giê-su, Đấng đã dậy các thượng tế và kỳ mục trong dân biết rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời là thi hành ý của Thiên Chúa là Cha. Những ai đã chót dại mà từ chối thi hành ý của Cha lúc ban đầu (ví dụ: những người thu thuế và những cô gái điếm trong dụ ngôn) thì thay đổi suy nghĩ mà hoán cải cũng chưa muộn. Còn những ai chỉ biết “nói vâng nói dạ” bằng môi bằng miệng mà không có hành động hoán cải tương ứng (ví dụ: các thượng tế và kỳ mục trong dân của dụ ngôn) thì hãy coi chừng.

Chúa Giê-su đã không chỉ giảng dậy mà còn sống một cách hoàn hảo tư cách làm con hiếu thảo (thi hành ý của Chúa Cha) như cộng đoàn Phi-líp-phê vẫn ca tụng: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”.

* Là Chúa Thánh Thần, Đấng dậy dỗ, hướng dẫn, giúp đỡ mọi tín hữu nhận ra đường lối của Chúa Cha và giáo huấn của Chúa Con để họ hoán cải tâm hồn mà đón nhận Chúa Con là Đấng được Cha sai đến và sống theo gương mẫu của Người là thi hành Ý của Cha một cách trọn vẹn.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “thi hành ý của Cha là đi làm vườn nho.”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, nhất là ơn được mời gọi thực thi thánh ý cũng là kế hoạch và chương trình yêu thương của Thiên Chúa.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa mỗi người chúng ta được mời gọi nhìn lại sự dấn thân của mình vào công trình xây dựng Vườn Nho của Thiên Chúa là thế giới, xã hội và Giáo Hội Việt Nam hiện nay.

Để giúp chúng ta nhìn lại việc thực thi sứ điệp Lởi Chúa của mình, chúng ta hãy thành thực trả lời 2 câu hỏi này:

* Tôi đã và đang làm những gì cho Giáo Hội Việt Nam nói chung và cho giáo xứ của tôi nói riêng, phát triển cả về số lượng lẫn về chất lượng?

* Tôi đã và đang làm những gì cho xã hội Việt Nam phát triển cả trong lãnh vực tinh thần và tâm linh, cả trong lãnh vực vật chất?

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới, để càng ngày càng có nhiều người từ bỏ điều dữ và làm điều lành để cứu mạng sống mình và mạng sống của những người chung quanh.

X- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và cho toàn thể các tín hữu, để mọi người đều học được tâm tình của Chúa Giê-su Ki-tô mà đối xử tốt với nhau và với những người xung quanh, nhất là với những người chưa nhận biết Thiên Chúa.

5.3 «Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người biết sống khiêm nhường, yêu thương và kính trọng người khác trong cộng đoàn của Chúa.

5.4 «Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các giáo lý viên và tông đồ giáo dân, để họ ý thức được tầm quan trọng của việc họ đảm nhận trong sứ mạng của Hội Thánh mà hăng say nhiệt thành với việc tông đồ và giảng dậy.

[Mục Lục]

Bài 8. SỐNG NHƯ CON THIÊN CHÚA: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI
Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 21,28-32

2. Ý CHÍNH: DỤ NGÔN VỀ HAI NGƯỜI CON

Qua dụ ngôn “Hai người con”, Đức Giê-su muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ cứng lòng của các đầu mục dân Do Thái, và kêu gọi họ phải ăn năn sám hối nếu muốn được hưởng ơn cứu độ. Dụ ngôn trình bày về hai thái độ của hai đứa con trong một gia đình:

Người thứ nhất tượng trưng các người thu thuế tội lỗi, tuy lúc đầu đã phạm tội không làm theo thánh ý Thiên Chúa khi không tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và hồi tâm sám hối tội lỗi, nên đủ điều kiện vào Nước Thiên Chúa của Người.

Người con thứ hai tượng trưng cho các thượng tế và đầu mục dân Do thái. Tuy bề ngoài họ rất có lòng đạo, thể hiện qua việc tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng lại cứng lòng không tin vào Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su do Thiên Chúa sai đến. Trái lại còn ra tay giết hại Đức Giê-su trên cây thập giá. Nên cuối cùng họ sẽ bị loại ra ngòai Nước Thiên Chúa.

3. CHÚ THÍCH:

- C 28-29: + Các ông nghĩ sao ?: Lời Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái tại Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,23-27). Để trả lời cho đòi hỏi Người phải chứng minh đã được Thiên Chúa sai đến, Đức Giê-su lại yêu cầu họ phải xác định nguồn gốc sứ mạng của Gio-an Tẩy Giả qua câu hỏi: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có ? Do trời hay do người ta ?”. Nếu họ nói là do trời, thì tại sao họ lại không tin lời Gio-an đã làm chứng Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? + Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Hai con trai tượng trưng cho hai thành phần của dân Do Thái là các người tội lỗi và các đầu mục Do thái tự cho mình là công chính. + Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và gái điếm. Những người này lúc đầu đã không giữ Luật của Thiên Chúa. Nhưng nhờ nghe và tin lời Đức Giê-su nên họ đã ăn năn sám hối và được ơn biến đổi trở thành con ngoan hiếu thảo của Thiên Chúa. + Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho là thi hành ý muốn của Thiên Chúa. + Con không muốn đâu: Câu trả lời cho thấy thái độ cự tuyệt, không chịu làm theo ý muốn của người cha. Điều này cho thấy những kẻ tội lỗi đang sống trái với thánh ý của Thiên Chúa. + Nhưng sau đó nó hối hận, nên lại đi: Sau khi nghĩ lại, đứa con đã nhận ra tội lỗi của mình và hoán cải để làm theo ý cha.

-C 30-31: + Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai tượng trưng cho những kẻ tự hào mình là người công chính. Đây là các thượng tế và kỳ mục lãnh đạo dân Do thái. + Thưa ngài, con đây !: Câu thưa lễ phép của một đứa con hiếu thảo, sẵn sàng vâng theo lời cha răn dạy. + Nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng mặt chứ không bằng lòng, nên sau đó đã không đi làm vườn nho theo ý của cha. Đây là thái độ “ngôn hành bất nhất”, “Nói mà không làm”. Đây cũng là thái độ đạo đức giả của các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ Luật Mô-sê từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su. + Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người Cha ?:Đặt ra câu hỏi này, Đức Giê-su muốn các đầu mục Do thái đặt mình trước mặt Thiên Chúa.+ Những người thu thuế và những cô gái điếm: là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì đã không giữ Luật Mô-sê và có nếp sống tội lỗi, gây gương mù gương xấu cho kẻ khác. + Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin vào Đức Giê-su nên họ sẽ có chỗ trong Nước Thiên Chúa mà Người sẽ thiết lập, thay cho các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục của dân Do Thái.

- C 32: + Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy Giả nhờ có lối sống khổ hạnh và sự rao giảng phép rửa thống hối, đã dạy dân Do thái biết phải làm gì để chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai hầu nên công chính trước Thiên Chúa. + Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời giảng của Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã đến nghe lời ông Gio-an rao giảng và đã tin Đức Giê-su do lời Gio-an giới thiệu. + Còn các ông…: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và được nghe lời Gio-an Tẩy Giả kêu gọi mọi người “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin vào sứ mạng của Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giê-su, nên họ sẽ không được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập.

4. CÂU HỎI:

1) Hai con trai trong dụ ngôn ám chỉ hai hạng người nào trong dân Do thái ?

2) Thái độ đối với Thiên Chúa của hai hạng người này khác nhau thế nào ?

3) Tại sao người thu thuế và gái điếm bị dân Do thái khinh thường ? Tại sao họ sẽ được vào Nước Trời của Đức Giê-su trước các thượng tế và đầu mục Do thái ?

4) Tại sao các đầu mục Do thái bị loại ra ngoài Nước Thiên Chúa của Đức Giê-su ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (21,23).

2. CÂU CHUYỆN: NGUỒN GỐC SỨC MẠNH CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM

Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có được một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô hãy thi thố tài năng để kiểm tra thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua, các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập ở hai bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô ra lệnh cho dòng sông đang chảy cuồn cuộn phải chảy ngược dòng, gây ra những tiếng động ầm ầm long trời lở đất. Đang khi đó, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hàng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông phải chịu lầm than đói khổ ! Nhà vua không thể tin được một cô gái điếm thuộc hạng tiện dân và tội lỗi, lại có sức mạnh phi thường, nên đã hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như nhà ngươi lại làm được một việc lớn lao phi thường như thế ?” Cô gái đáp: “Tâu đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ !”. Đức vua và những người nghe đều cười ồ lên. Nhà vua tiếp tục vặn hỏi: “Thế đức hạnh của ngươi ra sao ?”. Cô gái đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiện nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi nói chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám đông dân thường, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử với họ trọn tình vẹn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường bất cứ ai !”.

Theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên ông Gio-an Tẩy Giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an do Thiên Chúa sai đến và phải đi theo con đường công chính như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (32).

3. SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến các đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.

1) TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA ?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong Bài Đọc Một đã nêu ra lý do thứ nhất khiến các đâu mục Do thái bị mất chỗ trong Nước Thiên Chúa: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang là người tốt đang khi mình có thể đã hóa ra xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó ! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với con thứ: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng chỉ cần nói: “Thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng đã “thưa vâng” như thế khi ta đi dự lễ, đọc kinh nhiều… Nhưng “thưa vâng” như thế vẫn chưa đủ điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa sau này.

2) TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong Bài Đọc Một đã cho biết lý do thứ nhất: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ hối hận của đứa con thứ nhất: lúc đầu nó từ chối, nhưng “sau đó nó hối hận nên lại đi” (Mt 21,29). Thực ra, cả hai đều chung một lý do là: Phải biết hối hận về tội lỗi trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy, rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như giữa đời thường về những người có một quá khứ tội lỗi như trộm cướp, trùm Ma-phi-a… nhưng họ không những đã biến đổi nên người tốt, mà còn người có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống đời sống mới đầy tình thương đối với tha nhân. Họ thật xứng đáng được vào Nước Thiên Chúa để thế chỗ những kẻ đã từng sống tốt, nhưng dần dần bị biến chất trở thành những kẻ đạo đức giả như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su.

3) VỀ HAI LOẠI TÍN HỮU:

Một là những tín hữu “làm công cho Thiên Chúa”: Làm được việc gì tốt lành họ cũng đều làm với ý hướng được Chúa ghi vào sổ để mai sau sẽ trả công bội hậu cho họ trên thiên đàng. Họ làm những điều tốt do động cơ tìm kiếm hạnh phúc đời này hay đời sau, hoặc vì phần thưởng mà Chúa đã hứa trong Tin Mừng, chứ không làm vì thấy những việc ấy là điều tốt nên làm. Giả như làm những điều tốt này mà không mang lại lợi ích gì hay không được Chúa trả công bội hậu ở đời sau thì họ sẽ không làm.

Hai là những tín hữu “làm con của Thiên Chúa”: Họ có lòng yêu mến Thiên Chúa và luôn nhiệt thành “làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi anh em đồng loại”. Họ nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương họ, nên sẵn sàng đáp lại tình Cha bằng việc làm mọi việc để phụng sự Cha và phục vụ tha nhân là anh chị em con một Cha chung trên trời. Như một người con thảo hiếu coi mọi việc trong nhà chính là bổn phận phải làm. Vì thế họ dấn thân hết mình để lo cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Họ làm mọi việc này mà không mong được Thiên Chúa trả công. Giống như một đứa con hiếu thảo trong gia đình, khi thấy mình làm gì mà cha mẹ hài lòng và anh em trong nhà được sống hạnh phúc hơn thì coi đó chính là phần thưởng cho mình rồi. Chính tình yêu thương cha mẹ và anh chị em trong gia đình là động lực thúc đẩy họ tự nguyện làm mọi việc để mang lại hạnh phúc cho những người thân.

Vì họ đã làm sáng danh Thiên Chúa với tinh thần của “một người con hiếu thảo”, nên chắc chắn Thiên Chúa sẽ đáp lại bằng việc ban phần thưởng bội hậu cho họ, tương tự như người cha sắp ra đi sẽ làm di chúc trao lại toàn bộ tài sản cho đứa con hiếu thảo. Nếu chúng ta làm mọi việc cho Chúa “với tâm tình của một người con hiếu thảo” thì Ngài sẽ ban tất cả những gì Ngài có cho chúng ta, nhất là ban hạnh phúc Nước Trời đời đời của Ngài cho chúng ta. Điều mà những tín hữu cư xử với Chúa như “một người làm công” không bao giờ dám mơ tưởng.

4) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?

- Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng đức tin trong lòng thực sự phải được biểu lộ ra ngoài bằng hành động như lời thánh Gia-cô-bê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài môi miệng, nhưng phải được thể hiện bằng chính cuộc sống như lời Chúa Giê-su: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! Là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

- Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ đổi thay: Hôm nay chúng ta đang là người tốt, nhưng ngày mai có thể bị biến chất ra xấu và ngược lại. Do đó, chúng ta đừng vội hãnh diện về quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không nhận ra mình đang từng bước biến thành kẻ xấu lúc nào không hay.

- Cần năng tự kiểm vào lúc cuối ngày: để biết mình có giữ được điều đã dốc quyết hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay bao nhiêu chăng nữa, nhưng nếu không giữ được điều đã dốc quyết, hoặc “ngôn hành bất nhất”, là ta đã tự đánh mất uy tín, và điều ta nói sẽ không còn được mấy ai tin. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp mình từ bỏ các sai lỗi thiếu sót để sống tốt hơn và nhờ đó sẽ xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.

4. THẢO LUẬN: Đức Giê-su nói: ”Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài cửa miệng – Lòng đầy thì miệng mới nói ra !” Vậy hiện nay lời nói của bạn đang xây dựng hòa bình, gia tăng hiệp nhất hay đang gây bất hòa dẫn đến chia rẽ ly tán ?

5. CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con tránh thái độ của người con thứ hai trong Tin Mừng hôm nay: “Thưa vâng” rồi không làm theo những điều đã hứa. Nhiều lần chúng con đã thưa vâng với Chúa khi đi xưng tội, đã sốt sắng quyết tâm đổi mới trong các buổi tĩnh tâm sám hối chung, rồi sau đó chứng nào tật đó, chúng con vẫn sống và phản ứng theo lề thói cố hữu của mình ! Xin cho chúng con biết năng tự kiểm “trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót” vào mổi buổi tối hằng ngày. Xin cho chúng con tránh những ảo tưởng về mình để khỏi trở thành những Pha-ri-sêu đạo đức giả của thời đại hôm nay. Hy vọng sau khi được ơn tha thứ giống như ông Gia-kêu xưa, chúng con sẽ có thể yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

[Mục Lục]

Bài 9. HÀNH ĐỘNG TỐT THẮNG CÂU NÓI HAY
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa.

Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt – xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt – xấu; thật – giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.

1. Ý Nghĩa dụ ngôn

Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).

Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.

Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.

Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.

Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ!

Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.

Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31).

Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?

2. Thật giả vẫn luôn tồn tại

Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.

Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!

“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.

Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!

Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi… Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau:“Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.

Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.

Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).

Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.

Thật vậy, chúng ta có thể “lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được”. Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”.

3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.

Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).

Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).

Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. CON CẢ
P. Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, thưa các bạn. “Con cả” là con trưởng, con đầu, đứa con lớn được sinh ra đầu tiên. Vậy, “con cả” là người con được sinh ra lần thứ nhất. Người miền Nam, ít biết từ “con cả”, vì con cả của người miền Nam, được gọi là “Hai”. Anh Hai là anh lớn.

Vâng, hơi dông dài một chút, bởi vì chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật XXVI TNa hôm nay, Chúa Giêsu đề cao người con cả qua dụ ngôn “Hai người con” trong Tin Mừng (Mt 21, 28 – 32).

Theo đó, người con cả trong Thánh Kinh được đặt là “những kẻ tội lỗi”. Những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu minh định chính là “phường thu thuế và gái điếm” (Mt 21, 31 b). Vâng, Chúa nói “ …Ta nói thật với các người; những kẻ thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (c 31b). Như vậy, rõ ràng, các kinh sư và luật sĩ được đặt là người “con thứ hai”, trong dụ ngôn “Hai người con “hôm nay. Thật ra, tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nầy để nói về “Nước Trời” ? Thưa, chính là “sự hối cải”. Vâng, chủ đề chính của Lời Chúa hôm nay chính là “SỰ HỐI CẢI ”. Bởi vì, giáo huấn của Chúa Giêsu chính là kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối. Vì Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội biết sám hối, ăn năn. Vì vậy, Chúa Giêsu đã đặt “phường thu thuế và gái điếm” là “người con cả”. Vâng, “con cả” là người mà biết hối hận, ăn năn sau khi đã sai phạm. Vậy, kẻ sai phạm mà biết hối lỗi, thì có phúc hơn người không sai phạm mà tự kiêu. Còn ngược lại, nếu sai phạm mà tự kiêu thì “KHỐN NẠN” hơn người không sai phạm. Vì kẻ nói mà không làm, thì khốn hơn kẻ “có lỗi” mà ăn năn.

Rõ ràng, Ông Chủ có hai người con, một hôm Ông bảo hai người con ra làm vườn nho cho Ông. Người con cả không chịu đi làm, nhưng sau đó hối hận và đã đi làm vườn nho cho Cha mình. Người con thứ hai khi nghe Cha bảo : anh ta mau mắn vâng lời, nhưng sau đó không đi làm. Vâng, vấn đề chỉ có vậy.

Chúa Giêsu kết luận : Kẻ thực thi, vì hối hận, thì tốt hơn kẻ nói mà không thực thi.

Như vậy, kẻ tội lỗi mà hối cải ăn năn, thì tốt hơn người công chính không cần hối cải. Điều nầy có nghĩa là sự công chính của phàm nhân chính là sự “HỐI CẢI”, bởi vì, nơi phàm nhân không có ai công chính hoàn toàn. Mà sự công chính chỉ có nơi Thiên Chúa. Rõ ràng, người Do-thai không chịu hiểu điều nầy, nên họ không đón nhận được ơn cứu độ bởi đức Giêsu Kitô. Vì chính những con người tội lỗi, họ lại mang tâm trạng bất xứng trước Nhan Thiên Chúa. Để hiểu rõ tâm tình Lời giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta nhớ lại dụ ngôn “hai người lên đền thờ cầu nguyện”, một người thu thuế và một thầy kinh sư. Người thu thuế đứng cuối đền thờ và nói : “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi”. Trong khi đó, người kinh sư kể lể đủ điều :.. “ …nào là mỗi tuần con ăn chay mấy ngày, vì con không giống người thu thuế kia, con không lấy của ai, con làm phúc, bố thí, lo cho người nghèo…”. Chúa Giêsu bảo : “Qủa thật, Ta nói cho các người hay. Khi ra về, người thu thuế được tha thứ còn người kinh sư thì không” (Lc 18, 9-14). Cũng vậy, Thiên Chúa muốn yêu thương người tội lỗi, chứ không yêu thương tội lỗi của họ. Vì người tội lỗi bị thua thiệt về tội lỗi của mình và cần đến sự thứ tha. Như vậy, người tội lỗi phải biết hối cải, nếu không thì họ tệ hơn người không mắc lỗi. Từ đó, Thiên Chúa muốn sự hối cải của người tội lỗi, bởi chưng người công chính thì đâu cần sự hối cải.

Tóm lại, Thiên Chúa muốn sự hối cải nơi con người, bởi vì, phàm nhân không ai vẹn toàn, chỉ có duy mình Thiên Chúa là Đấng vẹn toàn. Thiên Chúa vẹn toàn, bởi vì Ngài là Đấng toàn năng. Nhân thế, nếu có chăng chỉ là bụi tro, trong một thời gian, nếu có tự cao, tự đai.

Thiên Chúa yêu thương người khiêm tốn, bởi vì họ tin tưởng có Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng vẹn toàn mà thôi. Thử hỏi con người c1o là bao, nếu như tự cao, tự đại. Vì mọi kẻ kiêu ngạo, Thiên Chúa coi là thừa. Bởi, “…Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của ngươi bấy nhiêu” (Is 55, 8 – 9)

Như vậy, Thiên Chúa vốn là tình yêu, chỉ có tình yêu đích thực nơi Thiên Chúa mới đắp đầy lỗ sũng nơi con người.

Bài đọc I (Ed 18, 25 – 28), “Kẻ dữ cải ác hoàn lương, ăn ở ngay lành thì được sống” (c 27). Nhưng kẻ lành mà bỏ đường lành , làm điều ác thì chết chắc” (c 26).

Bài đọc II (Pl 2, 1- 11), thánh Phao-lô cho chúng ta thấy chân dung Đấng cứu thế : “Đức Giêsu- Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho bằng được địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự nguyện hạ mình cho đến chết và chết trên Thập Gía. Từ đó, Thiên Chúa đã suy tôn Người ban tặng cho Người một Danh Hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Để khi nghe Tên Giêsu, thì mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục phải bái quỳ”.

Như vậy, Thiên Chúa yêu thương kẻ thực thi Lời Chúa, và kẻ hối cải ăn năn

Lạy Chúa Giêsu- Kitô, Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi bằng lòng chịu tử nạn để cứu thế gian. Xin ban cho muôn người chưa nhận biết Chúa được tim ra chân lý mà tìm về, hầu ăn hối cải để nhận được ơn ơn cứu độ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 11. NÓI VÀ LÀM
JM. Lam Thy ĐVD.

Không thiếu những người hay đem thuyết đỊnh mệnh để bào chữa cho lối sống của mình. Cái gì cũng do “Trời định” hết trơn, con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi luôn bị cột chặt vào số mệnh, không còn một chút tự do. Họ cho rằng con người giàu hay nghèo, hạnh phúc hay đau khổ, nhàn nhã hay vất vả, tất cả đều đã được ông Trời tiền định từ trước khi con người được sinh ra ở trần gian (“Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” – Truyện Kiều – Nguyễn Du). Theo triết học thì “Thuyết định mệnh” là một quan niệm cho rằng quá trình lịch sử thế giới, kể cả đời sống con người đều được quy định từ trước bởi một ý chí tối cao, bởi số kiếp, số phận. Con người dù muốn hay không cũng không thể tránh được. Do đó chỉ còn có thể có thái độ cam chịu. Trong thế giới cổ đại, quan niệm này được lưu hành rộng rãi và theo nó, số kiếp chẳng những thống trị con người, mà còn thống trị cả các thần linh.

Nói chung, trong lịch sử, “Thuyết định mệnh” đóng vai trò tiêu cực. Một mặt, quan niệm số kiếp quy định từ trước đã kích thích thái độ thụ động, sự phục tùng mù quáng vào hoàn cảnh. Mặt khác, lòng tin vào quyền lực vô hạn của ý chí tối cao, của Thượng đế, đã gây ra sự cuồng tín có tính chất tôn giáo. Quả thật, nhìn vào tôn giáo cũng thấy không ít luồng tư tưởng cho rằng tất cả mọi sự lớn nhỏ thuộc về con người đều được Thượng đế sắp đặt sẵn. Với Ki-tô giáo thì vì thấy những sự kiện, biến cố xảy ra trong Tân Ước đều đã được tiên báo từ Cựu Ước và chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nói những việc Người làm đều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh, lời các ngôn sứ từ Cựu Ước”, nên nhiều người cũng cho rằng tất cả cuộc sống con người ở trần gian đều đã được Thiên Chúa quan phòng “tiền định”. Từ đó nảy sinh quan niệm (giống như thuyết định mệnh) cho rằng cái gì cũng do Chúa định, Chúa an bài; thậm chí có những người sống cuộc đời không lương thiện, đến lúc nhà tan cửa nát, bị tù bị tội, thì lại đổ thừa “Chúa định cho tôi như vậy”. Để giải tỏa bớt những quan niệm yếm thế, tiêu cực đó, có lẽ cần phải hiểu vấn đề một cách thiết thực hơn:

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã giải thích về Thiên Chúa quan phòng: “Sự quan phòng chính là Thiên Chúa lo liệu với sự khôn ngoan và tình thương để dẫn đưa mọi thụ tạo tới cùng đích tối hậu của chúng.” (GL/HTCG, số 321); “Đức Ki-tô mời gọi chúng ta phó thác với tâm tình con thảo vào sự quan phòng của Cha trên trời (Mt 6, 26-34). Thánh Phê-rô cũng nhắc: “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người vì Người chăm sóc anh em”(1Pr 5, 7; Tv 55, 23)” (GL/HTCG, số 322); “Thiên Chúa quan phòng cũng hành động qua hành động của các thụ tạo. Thiên Chúa cho con người được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người.” (GL/HTCG, số 323). Điều đó cho thấy Thiên Chúa quan phòng sắp xếp cho con người có mặt ở trên đời, ban cho nhiều ơn lành để sống xứng đáng là con Thiên Chúa “được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người”, đồng thời Người còn ban Thần Khí soi sáng cho con người biết luôn can đảm để “làm lành lánh dữ”.

Thật là mầu nhiệm, ngay cả những hành động gian ác của con người cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Một cách nào đó, chỉ có mình Thiên Chúa biết, Ngài cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Ngài xoay chiều cái ác thành cái thiện (St 50, 20). Mầu nhiệm này đạt đến đỉnh điểm trong cái ác lớn nhất mà con người đã làm: giết Người Con chí ái của Thiên Chúa trên Thánh giá. Thiên Chúa đã biến đổi hành động này thành sự thiện (“Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đă đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đă định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đă chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo” (St 45, 8; 50, 20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của mọi người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (Rm 5, 20): Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được.” – GL/HTCG, số 312).

Còn vấn đề tiền định ở đây cũng không phải là định mệnh. Tiền định chỉ có nghĩa là Thiên Chúa biết trước (tiên liệu) và đưa ra quyết định ứng phó, hóa giải (Vd: Khi dựng nên loài người và ban cho sự tự do, Thiên Chúa đã tiên liệu con người sẽ phạm tội, nên Người hoạch định công trình cứu độ và cho con người được cộng tác vào công trình ấy, như trường hợp Đức Maria được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa và đồng công cứu chuộc nhân loại). Giáo lý HTCG (số 1037) dạy: “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục. Ai tự ý lìa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai lì đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Ðấng “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải (2 Pr 3, 9)”. Con người là thụ tạo nhưng được hoàn toàn tự do sống theo ý mình, không hề bị ép buộc theo một khuôn khổ định sẵn.

Vấn đề con người được tư do đã được Công Đồng Va-ti-ca-nô II – thông qua Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” – khẳng định: “Chỉ trong tự do con người mới có thể hướng về sự thiện … nhân cách con người đòi con người phải hành động theo sự chọn lựa có ý thức và tự do …” (GS, số 17); “Vì nhờ những phẩm cách nội giới của mình, con người vượt trên toàn thể mọi thứ vật chất. Con người chỉ thấu triệt thực thể này khi nào con người đi vào trái tim mình, Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi con người nơi trái tim họ; tại đó chính con người tự định đoạt lấy vận mệnh mình dưới mắt Thiên Chúa” (GS 14); “Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất hình ảnh Thiên Chúa trong con người” (GS 17). Rõ ràng Thiên Chúa sáng tạo con người theo “hình ảnh Thiên Chúa.” (St 1,26) là đã cho con người được hoàn toàn tự do. Một bằng chứng hiển nhiên: Vì con người được hoàn toàn tự do nên mới làm theo sự cám dỗ của ma quỷ để sa vòng tội lỗi (St 3, 1-24).

Quả thực vấn đề số mệnh, định mệnh đã làm khổ con người không ít. Người Ki-tô hữu lại càng cần phải hiểu thấu đáo vấn đề. Không bao giờ có chuyện “Chúa định cho tôi phải thế này, phải thế kia, phải tán gia bại sản, phải vào tù, phải bán vợ đợ con v.v… và v.v…”. Con người được hoàn toàn tự do lựa chọn cho mình một con đường sống “hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của vật chất” (Mt 6, 24; Lc 16, 13). Đọc và suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN XXVI/TN-A – Ed 18, 25-28), vấn đề sẽ được khai thông. Vâng, nếu tất cả đều do “Trời định”, “Chúa định”, thì sao lại có vụ một người công chính đi làm điều gian ác để đến nỗi phải chết? Còn kẻ gian ác thì “từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh” để “chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết”? Cuối cùng thì chính Thiên Chúa lại nói: “Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống” (Ed 18, 32).

Chúa có định cho một người công chính mà lại “theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm” hay không? Hoàn toàn không, trăm ngàn lần không. Hắn đã tự ý làm vì bị mê hoặc, cám dỗ mả hắn không tự biết. Khi hắn bị hình phat, Thiên Chúa cũng chẳng vui gì, mà trái lại nữa là khác. Còn đối với kẻ gian ác, Chúa cũng chỉ khuyên bảo răn đe, hoàn toàn không ép buộc phải thế này hay thế khác. Khi kẻ gian ác hiểu ra những sai phạm của mình, sẵn sàng từ bỏ điều dữ mà thi hành điều công minh chính trực; được như vậy, nó sẽ sống, tất nhiên. Chính vì thế, nên Thiên Chúa mới mời gọi và khuyên răn: “hãy trở lại và hãy sống”. Cho nên có thể nói, con người đã tự định đoạt số phận của mình. Chẳng ai bắt anh phải làm thế này, buộc anh phải sống thế kia, tất cả đều do anh tự chọn và quyết định cho cuộc đời của mình.

Tiếp tục suy niệm bài Tin Mừng hôm nay trình thuật dụ ngôn “Hai người con” (Mt 21, 28-32), thấy rõ hai người con này tự quyết định theo ý mình trước lời kêu gọi của người cha. Người con thứ nhất lúc đầu thì từ chối, nhưng sau đó lại vào làm, còn người thứ hai thì mau mắn nhận lời nhưng sau đó lại không đi. Đọc tới đây, ai cũng hiểu ngay con người sống trên đời luôn có tự do và Thiên Chúa tôn trọng sự tự do đó của con người. Chính người con thứ nhất, cứ tưởng anh ta sẽ không đi làm theo ý cha vì anh ta đã thẳng thắn từ chối, nhưng rồi anh lại đi. Còn người con thứ hai thì mau mắn đáp lời cha, ai chẳng cho rằng anh ta sẽ thi hành ý cha cách tốt đẹp, vậy mà rốt cuộc thì lại trốn tránh. Cá hai trường hợp đều rơi vào cảnh “ngôn hành bất nhất” (“lời nói không đi đôi với việc làm”), nhưng xét cho cùng, người con thứ nhất mới là người đáng để cho người khác học hỏi.

Cũng vì đám thượng tế và kỳ mục Do-thái vặn hỏi Đức Giê-su về quyền bính của Người (Mt 21, 23-27), nên sau đó Người tiếp tục kể cho họ nghe dụ ngôn “Hai người con”. Kể dụ ngôn, nhưng Đức Giê-su không kết luận, mà đặt câu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21, 31) để người nghe tự đưa ra kết luận. Đáng lẽ Đức Giê-su căn cứ vào câu trả lời của nhóm người này, dạy bảo họ “hãy trở lại và hãy sống”, thì Người lại nói tới bọn gái điếm và thu thuế vốn bị coi là tội lỗi, là những người sẽ “vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” (Mt 21, 31-32).

Quả thật đây là một cái tát cực mạnh vào đám người huênh hoang tự phụ, hay đứng ở ngã ba ngã tư, khua chiêng đánh trống (Mt 6, 1-6); hoặc thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy… đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 2-7) Đó là những tên lẻo mép, chỉ biết nói mà không thèm làm, hệt như người con thứ hai trong dụ ngôn (“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu!” – Mt 7, 22; “Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.”– Mt 23, 1-3).

Chung quy thì cũng chỉ vì anh nói thì hay lắm, rất hay; nhưng anh lại không làm được đúng như điều anh đã nói. Một cách cụ thể, anh không tin vào những điều anh nói – không tin cả chính mình – như vậy thì sao có thể gọi là những người đi nói cho kẻ khác tin? Còn người thu thuế và gái điếm, thì vì họ biết nhìn lại mình, biết mình là người tội lỗi và biết tin vào người chỉ dẫn cho mình đường ngay lẽ phải, chính nhờ vậy mà họ thành công. Thật rõ ràng như hai với hai là bốn: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18, 26-27).

Ôi, lạy Chúa! Chẳng phải nói ai khác, mà chính bản thân con, từ trong sâu thẳm lòng mình, cũng đã hơn một lần con thèm muốn được như đám thượng tế, kỳ mục, kinh sư Do-thái, cho dù sau đó có bị án phạt thì cũng cam lòng (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, Còn hơn buồn le lói suốt năm canh” – Xuân Diệu). Thế đấy! Con cũng chỉ là một con người tầm thường, bé nhỏ, mỏng giòn, chỉ biết suy tính theo cái tư tưởng bất toàn của loài người. Lời nói của con không đi đôi với việc làm, mà nhiều khi còn đối kháng với hành động của con. Điều đó lại càng chứng tỏ chúng con đã được Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, con đã lợi dụng sự tự do đó mà làm nô lệ cho tội lỗi mà không tự biết.

Quả thật “Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết.” (Rm 6, 20-21). Chính vì thế, cúi xin Chúa soi lòng mở trí cho con, thêm sức cho con biết luôn luôn “nhìn lại mình” để chiến thắng chính mình trước đã, và biết luôn luôn đem Lời Chúa dạy ra thực hành với châm ngôn “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 12. Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán : “Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ ” (Os 6, 6; Mt 9, 13). “Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống” (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).

Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là “Cha đầy tình thương xót” (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.

Trách nhiệm của con người

Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời : vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo : “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết ” (Ed 18, 28).

Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói “vâng“, “tôi biết“, “tôi thực hành giáo lý” mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói “không” với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.

Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố : “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu : ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!

Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước

Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: “Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước” (Mt 21, 31). Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.

Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.

Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện… như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).

Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước : “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21, 32).

Hoán cải không bao giờ là muộn.

Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời” (Mt 7, 21).

Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.

Họ nói “vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói “vâng” nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch : những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói “không” với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói ““, nên Chúa Giêsu tuyên bố : “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).

Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói “có” … “Con không đi’. Nhưng sau hối hận và đi làm” (Mt 21, 29).

[Mục Lục]

Bài 13. NÓI VÀ LÀM
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.

-Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.

-Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ “ngôn hành bất nhất“, “nói mà không làm“, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.

Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.

1. Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống

Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”.Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.

- Nói ít làm nhiều

Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.

- Nói nhiều làm ít

Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).

2. Nói và làm, hai thái độ sống

Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.

- Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.

- Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.

3. Những bài học

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.

- Việc làm quan trọng hơn lời nói

Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

- Hãy làm một cách khiêm tốn

Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy“.

Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.

Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách
?

[Mục Lục]

Bài 15. Ngôn hành như nhất
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt”.

Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt”.

Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.

Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo”. Bà Ar-gut còn viết tiếp:

“Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”.

Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.

Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.

Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.

Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.

Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.

Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.

Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.

Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…

Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. Cải thiện cuộc sống
Lm. Ignatiô Trần Ngà

Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.

Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha”. Nó ương ngạnh trả lời: “Không! Con không đi!”. Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: “Con sẽ đi!”, nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.

Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”, Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.

Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.

Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.

Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.

Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?

Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.

Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy.

[Mục Lục]

Bài 17. Thái độ vâng phục
R. Veritas

Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.

Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về “Cuộc Đời Của Mình”, Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:

Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.

Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.

Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.

Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.

Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

[Mục Lục]

Bài 18. Bài giảng của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”(Mt 21,32)

Anh chị em thân mến,

Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời sống cộng đoàn. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta nói với nhau về một vấn đề khác, cũng liên qua tới địa vị làm con Thiên Chúa, nhưng dưới một khía cạnh tích cực hơn: “Chúng ta phải sống như thế nào để xứng với địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta?”.

A- Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn hôm nay:

Một người kia có hai người con. Hai người con, con của cùng một người cha. Ở đây chúng ta thấy Chúa cố ý không đề cập đến địa vị hay ngôi thứ của hai người con này. Chúa làm như thế với một chủ ý rõ rệt là cho người ta thấy trong cương vị làm cha thì ông dành cho hai người con một tình yêu y như nhau, và đồng thời cũng cho chúng ta thấy trong cương vị làm con thì cả hai đều có một giá trị như nhau trước mặt cha của mình.

Để anh chị em hiểu rõ được điều này, tôi xin lấy một thí dụ. Đây là thí dụ nằm ở trong kho tàng văn chương của chúng ta. Truyện kề như thế này. Có một ông nhà nho kia có đến hai bà vợ. Thông thường thì chúng ta thấy trong hai bà thì phải có một bà làm “cả” một bà làm “lẽ” hay “thứ”. Nhưng đối với ông nhà nho này thì ông ta muốn coi hai bà vợ như nhau, không bà nào hơn, không bà nào kém. Chính vì thế mà một hôm khi có người hỏi ông bà nào là cả bà nào là thứ thì ông trả lời “Cả hai vợ đều là vợ cả” Một câu trả lời có tính cách chơi chữ nhưng nó cũng nói lên được một cái gì có tích cách “cào bằng” trong ý nghĩa về một thực tế trong cuộc sống của người này.

Vậy thì trong dụ ngôn hai người con, chúng ta cũng thấy một ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai người con đều là “con cả” và cùng là con của một người cha. Người cha này yêu thương hai người con y như nhau….đối xử với hai người một cách đồng đều. Và khi đã cư xử như thế thì chắc chắn ông cũng thầm mong là ông sẽ được cả hai người đáp lại tình yêu của mình cũng bằng một tình như nhau.

Mong thì là như thế, nhưng trong thực tế có được như vậy hay không thì lại là một truyện khác.

Lúc đầu khi ông kêu gọi người con thứ nhất. Nó đã đáp lại một cách cộc cằn và cứ bên ngoài mà xét thì nó thật đáng lên án. Nhưng sau đó nó hối hận rồi nó sửa lại lỗi lầm của mình không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm. “Nó hối hận và đi làm”(Mt 21,29).

Sau dó người cha cũng nói những lời y hệt như thế với người con thứ hai. Thái độ lúc đầu của người con thứ hai thật dễ thương “Vâng, thưa cha, con đi”(Mt 21,30). Thật là đẹp tuyệt vời. Và cứ theo cách bên ngoài mà nói thì chắc là chúng ta phải khen người con thứ hai này. Thế nhưng những cái đẹp ban đầu đó lại không đuợc tiếp tục đẹp. Nó đã nhanh chóng đổi chiều. Người con thứ hai đã nuốt lời một cách không hổ thẹn.

Như vậy chúng ta thấy cả hai người con cùng được mời gọi bởi cùng một người cha….để làm cùng một công việc và làm trong cùng một vườn nho.

Thế nhưng, bằng ấy cái cùng chưa đủ để có thêm những cái cùng khác:

Qua hai cách đối xử của hai người con, người ta đã được chứng kiến một sự đảo lộn giá trị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.

Cái mà người ta tưởng là xấu lại biến thành tốt và cái mà người ta tưởng là tốt lại trở thành tồi tệ.

Kết thúc câu truyện Chúa Giêsu đòi những người nghe phải tự lượng giá. Và câu trả lời đã đúng như Chúa mong đợi.

Nếu câu truyện kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta chẳng có gì phải bàn thêm. Đàng này sau khi nhận được câu trả lời của những người nghe, Chúa đưa ra những lời cảnh cáo khá nặng. Chúa nói như thế nào thì tất cả chúng ta đã nghe.

B. Chúng ta tự hỏi: Chúa nhắm điều gì khi đưa ra những lời cảnh cáo nặng như thế? Ai là hiện thân cho người con thứ nhất và ai là hiện thân cho người con thứ ai và ai là hiện thân cho người cha trong câu truyện.

Chúa không đưa ra một câu trả lời làm sẵn. Nhưng rõ ràng Chúa muốn vẽ ra một bức tranh gồm hai hạng người mà cả hai đều bất toàn mặc dầu trong đó có một hạng tốt hơn. Rõ ràng trong câu truyện này cả hai người con đều không làm hài lòng người cha vì cả hai đều không làm cho ông có được một niềm vui trọn vẹn. Hạng người thứ nhất là hạng người làm nhiều hơn là nói. Hạng người thứ hai là những người chỉ nói mà không làm. Họ hứa thật nhiều nhưng làm thì chẳng có gì cả.

Vậy người con hoàn hảo đối với Chúa là người con nào? Thưa là người sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của cha với thái độ vâng phục và kính trọng, chấp nhận trọn vẹn và không thắc mắc. Chúng ta có thể nói họ là những người mà lời nói và làm luôn đi đôi với nhau. Đây mới là những người mà Thiên Chúa mong đợi.

Nhưng ai là những người như thế?

Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng có thể tìm ra câu trả lời. Đó là những người hết lòng yêu mến Chúa đồng thời cũng hết lòng yêu mến anh em đồng loại của mình.

+ Bây giờ đến lượt chúng ta:

Tôi phải làm gì trước những đòi hỏi của Chúa?

- Đối với Chúa

Một linh mục ở một xứ đạo kia khi làm thống kê trong họ đạo của mình đã hỏi một người chủ gia đình như sau:

- Ở nhà có bao giờ gia đình cầu nguyện chung với nhau không?

- Thưa Cha chúng con không có giờ.

- Giả như anh và gia đình biết một người trong gia đình sẽ bị bệnh nếu không ai cầu nguyện cho người đó thì thử hỏi anh và gia đình có cầu nguyện không?

- Ồ con đoán là lúc đó gia đình chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả như anh biết một ngày nào đó vì gia đình lơ là trong việc cầu nguyện mà một tai họa sẽ xảy đến cho gia đình thì lúc đó anh và gia đình có cầu nguyện không?

- Tất nhiên là chúng con phải cầu nguyện rồi.

- Giả như mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật sẽ phạt 5 dollars. Lúc đó anh và các con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?

- Chắc là chúng con sẽ cầu nguyện nhưng ý của những câu hỏi cha hỏi chúng con mãi như thế là gì?

- Như vậy vấn đề ở đây không phải là không có thời giờ. Anh có thể tìm được thời giờ. Vấn đề ở đây là anh đã quá coi thường việc cầu nguyện: Coi thường hơn tiền bạc, hơn sức khỏe vv và vv. Như vậy vấn đề ở đây là anh và gia đình anh có thấy được những hồng ân Chúa ban cho anh cũng như gia đình anh qua việc cầu nguyện hay không. Nếu thấy được thì khỏi cần phải nói, không phải chỉ cầu nguyện mà chắc là anh sẽ còn làm hơn thế nữa. Còn nếu không thì chắc là chẳng bao giờ anh cầu nguyện dù chỉ là một kinh!

- Còn đối với những anh em của tôi thì sao? Phải Yêu Thương họ.

Thánh Têrêxa HĐGS nói: “Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm nhưng cốt ở việc làm”

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

- Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:

- Đó là “Tình yêu” .

Vị Giám mục rất nhạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói “Sai “, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại.

[Mục Lục]

Bài 19. Các Ông nghĩ sao?
Fx Đỗ Công Minh

“Đức Giêsu nói với các Thượng tế và Kỳ mục trong dân rằng : “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn! Nhưng sau đó nó hối hận, nên đi lại. Ông đến gặp người con thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa Ngài, con đây. Nhưng rồi không đi. Trong hai người con đó, ai thi hành ý muốn của người Cha ?”

Đọan Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu hỏi các thượng tế và kỳ mục mà cũng là hỏi từng người chúng con: “Ý con thế nào?” tất nhiên câu trả lời sẽ là: Người thứ nhất”.Quá đúng. Ai trong chúng con cũng biết điều ấy. Thế nhưng xét mình, con tự hỏi con đang là hạng người nào ? Thứ nhất hay thứ hai trong cuộc sống hôm nay ?

Người thứ nhất có cái sai của anh ta : “Không vâng lời”, hay nói đúng hơn là không muốn làm theo ý tốt của cha mình. Không tin vào lòng yêu thương của Cha muốn con được đón nhận tình thương của Người. Thế nhưng, khi nghĩ lại về thái độ của cha mình, anh biết ông không hề muốn đày đọa, ghét bỏ mà luôn luôn muốn anh được hạnh phúc. Anh không nỡ trái ý ông, làm mất lòng ông và hơn cả là anh có lòng tin vào tình Phụ tử của người cha nhân từ, anh quyết định “đi làm”. Thái độ ấy là một sự thay đổi theo hướng tích cực. Bản tính con người là hay thay đổi, từ thái cực này chuyển sang thái cực khác, bình thường thôi. Nhưng sự thay đổi của anh thể hiện thái độ phục thiện, vâng phục sau khi đã hồi tâm, đã hối hận. Đây không phải là một sự thay đổi nhất thời, bồng bột mà là một sự sáng suốt, tỉnh táo. Một quyết tâm đổi mới, trở lại con đường ngay chính.

Người thứ hai, rất vui khi được người cha hỏi đến, rất sẵn sàng trả lời một cách đĩnh đạc trước yêu cầu của Cha mình : “Thưa Ngài, con đây“. Hẳn người Cha nghe được những lời ấy vui biết bao. “Có thế chứ ! Ai lại như thằng kia, thẳng thắn chối từ thi hành ý muốn của mình”. Thế nhưng, nói vậy chứ không phải vậy. Chắc anh ta nghĩ: cứ vâng dạ đi cho cha vui lòng, còn làm hay không là do mình. Vườn nho thì bao la, người làm thì đông đúc, mình không đi thì cũng vẫn có người làm, “không mợ thì chợ vẫn đông”, làm sao ông biết được mình có đi hay không ? Chính từ suy nghĩ ấy, anh không hiểu rằng người cha vẫn dõi theo anh từng bước; cuộc đời của anh, cha nắm vững; từng việc anh làm, từng bước anh đi cha đều nhìn đến và lo lắng cho anh, anh quyết định không đi, cha buồn biết bao. Anh không tin rằng cha biết anh, anh lừa cả cha. Cha đau xót biết chừng nào. Tự anh, anh đã rời xa tấm lòng thương xót của cha, mà vì tôn trọng sự tự do của anh, cha đã không thể ép anh theo ý Người.

Cuối cùng: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông“. Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh báo và nhắc nhở. Những người thu thuế, những cô gái điếm không phải là những người tốt. Họ đã từng không nghe lời Thiên Chúa, đi vào con đường tăm tối. Nhưng khi đón nhận được những lời rao giảng, chỉ đường công chính của những sứ giả của Đức Kitô ngày ấy, và hôm nay là Tin Mừng của Đức Kitô để lại. Họ đã tin, đã sám hối và họ sẽ được cứu thóat.

Lạy Chúa,

Con cũng đã biết người thi hành ý muốn của người cha là người thứ nhất. Con cũng nghĩ rằng mình sẽ theo anh ấy. Thế nhưng, trong thực tế cuộc đời, biết bao lần con nói mà không làm. Vâng vâng dạ dạ, xin sám hối trở về nhưng rồi đâu lại vào đó. Lúc này là người thứ nhất, chẳng bao lâu lại thành người thứ hai. Phải chăng lòng tin của con còn non yếu? Phải chăng con đã không năng nghe, đón nhận Lời Chúa để Lời Người hằng ở bên con, nâng đỡ con hầu con biết thi hành ý Chúa muốn nơi con.

Xin giúp con, Chúa ơi !

[Mục Lục]

Bài 20. Ai đáp lại lời Cha?
AM Trần Bình An

Tháng 7 năm 1951, sau khi lãnh chức phụ phó tế, thầy Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học tại Hoa Kỳ. Tiếp tục học thần học tại Đại chủng viện Saint Meinrad, Indiana, thầy được chịu chức linh mục ngày 03-05-1952. Sau đó, Cha Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, được chuyển đến Đại học Loyola tại Chicago để học môn Xã hội học. Tháng 6 năm 1954 Cha tốt nghiệp master về Xã hội học. Đang tiếp tục dọn tiến sĩ thì ngài nhận được thư của Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai chuyển đạt lệnh truyền của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê như sau: “Xin Cha biên thư cho các Cha Trương, Cha Thông, Cha Oánh, báo tin cho các Cha ấy biết tôi muốn cho các Cha ấy về Bắc. Các Cha bỏ đi Nam nhiều, thiếu người làm việc. Tôi muốn mở lại các Chủng viện. Tôi để tùy ý các Cha, nhưng nếu các Cha ấy về, thì tôi vui mừng lắm.”

Nhận được thư ấy, ngài lo âu suy nghĩ rất nhiều. Vì đang học dở dang. Vì hoàn cảnh quê nhà đang rối ren và những người thân thiết đều ngăn cản. Nhưng Cha Thông nói với ngài:“Bỏ tất cả mà về, thì được Chúa Thánh Thần.” Thế là hai Cha cùng nhau quyết định vâng lời bề trên trở về giáo phận dù rất băn khoăn lo lắng vì biết chắc sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tháng 9 năm 1955, về đến nhà, ngài lao ngay vào công việc, vừa làm thư ký cho Đức Cha, vừa dạy học cho Tiểu chủng viện Gioan, vừa dạy giáo lý cho giới trí thức. Vì lớp giáo lý có ảnh hưởng sâu rộng nên chính quyền ra lệnh đình chỉ. Ngài lại lui vào âm thầm, tổ chức đào tạo giáo lý viên trong Tòa giám mục. Thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của ngài, và vì ngài không ủng hộ Ban Liên Lạc Công giáo nên chính quyền quyết định bắt ngài cải tạo tại chỗ. Ngày 16-08-1965, ngài bị quản chế tại Chuôn Trung với kỷ luật nghiêm ngặt.

Tuy bị quản chế nghiêm ngặt, hằng ngày phải chịu đựng những thái độ, lời lẽ nghi kỵ, nhục mạ, luôn bị gọi lên thẩm vấn, điều tra, làm kiểm điểm, làm báo cáo liên tục, ngài vẫn luôn vui tươi. Ngài hăng hái làm việc tay chân như cuốc đất trồng rau, đào giếng. Và nhất là dù bị cấm đoán, ngài vẫn dâng lễ vào lúc 2 giờ sáng để giáo dân có thể tham dự thánh lễ. Ngài dâng lễ rất sốt sắng.

Trong suốt 20 năm, ngài thường xuyên liên lạc với Đức Cha Khuê bằng thư từ hoặc nhắn gửi. Đặc biệt trong những ngày lễ ngày tết, không bao giờ ngài quên viết thư chúc mừng Bề trên Giáo phận. Nhận được thư của ngài, Đức cha Khuê đều trả lời với lòng quí mến, rất ưu ái. Ngài cũng thường viết thư trao đổi với Đức Cha Fx Nguyễn Văn Thuận đang bị quản chế tại Hà Nội. Để trả lời ngài, Đức Cha Thuận cũng thường viết thư cho “em Oanh Sắc.”(Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, (1922-2007), Chân dung Lm, TGP Hà Nội)

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Matthêu thuật dụ ngôn hai người con được người cha gọi đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối, nhưng sau hối hận, đi làm. Người con thứ hai tuy vâng dạ, nhưng lại không đi làm. Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh xứng danh người con hiếu thảo, đã vâng lệnh Bề Trên, về làm vườn nho, dù biết trước bao gian nan, khó khăn, thách đố đang chờ đón ngài.

Trong cuộc sống đạo, với sự yếu đuối cố hữu bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể nhập vai cả hai người con, tùy theo lửa mến nhiều hay ít, mà đáp lại lời mời gọi làm vườn của Chúa.

Người con hiếu thảo

Làm vườn nho với tâm hồn khiêm tốn, không tự mãn, không so bì, đố kỵ, mà chân thành ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm, người con thảo hiếu còn luôn tập sống xả kỷ vị tha, biết trân trọng, quan tâm và phục vụ tha nhân. Thánh Phaolô căn dặn khi vào làm vườn thì:“Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.” (Pl 2, 3-4).

Muốn thế, người con hiếu thảo luôn tha thiết cầu nguyện, gần gũi, đắm say lửa mến, để mặc lấy tâm tình Thầy Chí Thánh, khiêm nhu, hạ mình, vâng phục Thánh Ý trọn hảo: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa…” (Pl 2, 5-11)

Đồng thời, làm vườn nho là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, có nghĩa đoạn tuyệt, quên đi quá khứ huy hoàng, thành quả tốt lành, hoặc giã từ những thất bại ê chề, tội lỗi nhám nhúa, để sám hối, canh tân. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Chúa.” (Lc 9, 62)

Vì thế, sống giây phút hiện tại cũng là nhật nhật tân, hựu nhật tân, mỗi ngày mỗi đổi mới, mỗi thêm xả kỷ vị tha. Lời Chúa, Thánh Thể, cùng hồng ân hằng ngày của Người Cha thương ban, như lương thực dồi dào, bồi dưỡng tâm hồn, tăng sức đề kháng, tăng cường công lực, sẵn sàng dấn thân, người con thảo mới có thể an tâm lữ hành trên đường hy vọng.

Người Cha hằng hiện hữu

Vô thủy vô chung, “Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.” (Kh 22, 13) Ngài là Đấng Tạo Hóa hằng hiện hữu vượt ra bên ngoài không gian và thời gian, mà Ngài đã sáng tạo. Trong khi muôn loài thọ tạo thì chịu giới hạn và gắn chặt trong vòng kim cô của thời gian và không gian. Vì thế, tất cả biến cố, sự kiện diễn ra dưới trần thế, lòng vòng xoay vần như đèn cù, vẫn luôn mãi là thời hiện tại qua lăng kính kỳ diệu của Thiên Chúa.

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3, 21-22)

Đức Giêsu cũng luôn dùng thời hiện tại trong rao giảng. Như tại hội đường Nazareth, sau khi đọc xong một đoạn lời ngôn sứ Isaia, Người nói với cộng đoàn: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kính Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…”(Mt 6, 11). Khi Người mời gọi người thu thuế: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” Sau khi ông Dakêu sám hối, ăn năn hứa đền bù tội, Đức Giêsu hân hoan:“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này,.. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”(Lc 19, 1-10)

Người Cha khoan dung hằng hiện hữu không chấp nhất quá khứ con cái, dù bất hiếu, ngỗ nghịch, bỏ đi hoang đàng, như qua lời cầu khẩn trong cơn quẫn bách, Vua Đavít đã tán dương, chúc tụng: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín.” (Tv 86, 16)

Người Cha khoan dung, rộng lượng quên ngay tội lỗi đứa con hư đốn, ương ngạnh, đanh đá, cá cầy, biếng nhác, chối phắt đi làm. Người lại trở nên rạng rỡ vui vẻ ngay, khi đứa conhôm nay biết ăn năn, hối hận, hoán cải, hiếu đễ, chịu thương chịu khó, hăng hái đi làm vườn. Đó là vì Chúa Giêsu kém trí nhớ! một trong mười khuyết điểm vô cùng đáng yêu của Đức Giêsu, mà ÐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ lần đầu tiên vào sáng thứ Bảy, ngày 12.09.1998, tại nguyện đường Dòng Truyền-Giáo Ðức Mẹ Vô Nhiễm (O.M.I), Strasbourg, Pháp.

“Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng.” (Ðường Hy Vọng số 978).

Lạy Chúa Giêsu, xin xóa đi niềm tự cao, tự đại trong tâm hồn chúng con, vì lầm tưởng rằng mình đạo gốc, công chính, đạo đức, dễ ngủ mê trong kiêu căng, tự phụ, đánh mất hết ân nghĩa của Chúa. Cũng xin Chúa xóa đi nỗi mặc cảm của chúng con tự ty, tội lỗi, xấu xa, gớm ghiếc, chua chát thất vọng, để có thể tỉnh ngộ, chân thành sám hối, ăn năn và trông cậy, trở về vòng tay yêu thương của Người Cha Nhân Từ.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ, giúp đỡ, cầu bầu cho chúng con sống trọn vẹn giây phút hiện tại, với tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.

 

[Mục Lục]


Trở lại      In      Số lần xem: 4947
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  16
 Hôm nay:  1353
 Hôm qua:  2507
 Tuần trước:  20555
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12325660

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn