Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Toàn văn Sứ điệp hòa bình 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Toàn văn Sứ điệp hòa bình 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Toàn văn Sứ điệp hòa bình 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

TÌNH HUYNH ĐỆ, NỀN TẢNG VÀ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HÒA BÌNH

 

Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình đầu tiên của mình, tôi ước ao gửi đến mọi người, cá nhân cũng như các dân tộc, ước mong về một đời sống được đổ đầy với niềm vui và hy vọng. Trong trái tim của mỗi người nam và người nữ luôn thường trực một nỗi khao khát về một đời sống sung mãn, bao gồm khao khát không thể kìm nén được về tình huynh đệ vốn là điều lôi kéo chúng ta đến với người khác và giúp chúng ta đối xử với họ không như là kẻ thù hay người đối địch, nhưng như là anh chị em được đón nhận và ôm ấp.

 

Vì chúng ta là một hữu thể tương quan, tình huynh đệ là một phẩm chất thiết yếu của con người. Một ý thức sống động về mối tương quan này giúp chúng ta nhìn và đối xử với nhau như là anh chị em đích thực. Không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công bình và một nền hòa bình bền vững và viên mãn. Chúng ta nên nhớ rằng tình huynh đệ cách chung được học biết tại gia đình, trên hết là nhờ vào vai trò trách nhiệm và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, đặc biệt là người cha và người mẹ. Gia đình là nguồn mạch của tình huynh đệ, và như thế gia đình chính là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình, vì ơn gọi của gia đình chính là thông truyền tình yêu cho thế giới xung quanh.

 

Việc gia tăng về các mối liên hệ nối kết với nhau và truyền thông trong thế giới hôm nay khiến chúng ta ý thức nhiều hơn về sự hiệp nhất và số phận chung của các quốc gia. Trong sự năng động của lịch sử, trong sự đa dạng của các nhóm chủng tộc, xã hội và văn hóa, chúng ta nhìn thấy những hạt giống, là ơn gọi hình thành một cộng đoàn gồm những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc lẫn nhau. Nhưng ơn gọi này vẫn thường xuyên bị khước từ và lờ đi trong một thế giới bị ghi dấu bởi “sự toàn cầu hóa dửng dưng”, điều làm cho chúng ta dần quen với sự đau khổ của người khác và khép mình lại.

 

Tại nhiều nơi trên thế giới, những tội ác chống lại những quyền nền tảng của con người dường như không kết thúc, đặc biệt là quyền sống và quyền tự do tôn giáo. Những thảm cảnh về tệ nạn buôn bán người, mà trong đó đời sống và nỗi tuyệt vọng của người khác là miếng mồi ngon của những kẻ vô đạo đức, là một ví dụ điển hình cho vấn đề này. Cùng với các cuộc xung đột vũ trang công khai là các cuộc chiến tranh ít nhìn thấy hơn, nhưng không kém phần độc ác, đó là các cuộc chiến trong các lĩnh vực kinh tế và tài chính, chúng phá hủy cuộc sống, phá hủy gia đình cũng như doanh nghiệp.

 

Toàn cầu hóa, như ĐTC Biển Đức 16 chỉ ra, làm cho chúng ta trở thành “hàng xóm” nhưng không giúp chúng ta trở thành anh chị em của nhau.[1] Nhiều tình huống bất bình đẳng, nghèo đói và bất công không chỉ là dấu chỉ của việc thiếu tình huynh đệ sâu sắc mà còn là dấu chỉ của sự vắng mặt một nền văn hóa liên đới. Những ý thức hệ mới, được đặc trưng bởi sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân, việc tự coi mình là trung tâm và chủ nghĩa tiêu thụ vật chất, làm suy yếu đi các mối tương quan xã hội và làm nảy sinh não trạng “thải bỏ” dẫn đến thái độ xem thường và loại bỏ những người yếu đuối nhất và những người bị xem là “vô dụng”. Trong cách này, sự đồng tồn tại của con người ngày càng có xu hướng trở thành một hành vi “có qua có lại” (do ut des) đầy thực dụng và ích kỷ.

 

Đồng thời, rõ ràng là hệ thống đạo đức đương đại không có khả năng tạo ra những mối tương quan huynh đệ đích thực, vì tình huynh đệ này không muốn tham chiếu đến một vị Cha chung là nền tảng tội hậu giúp nó tồn tại.[2] Tình huynh đệ đích thực giữa con người giả thiết và đòi hỏi một Tình Phụ tử siêu vượt. Nếu đặt nền tảng trên việc thừa nhận tình phụ tử này, tình huynh đệ nhân loại sẽ được củng cố: Mỗi người trở thành một “bạn hữu” để chăm lo cho người khác.

 

“Em ngươi đâu?” (St 4,9)

 

2. Để hiểu đầy đủ hơn về ơn gọi của con người đối với tình huynh đệ, để nhận ra một cách rõ ràng hơn những cản trở trên bước đường hiện thực hóa ơn gọi này và để nhận ra những con đường nhằm vượt qua những cản trở ấy, điều quan trọng nhất là chúng ta hãy để cho mình hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch được trình bày trong một cách thức trổi vượt trong Kinh Thánh.

 

Theo tường thuật Thánh Kinh về sáng tạo, tất cả con người có nguồn gốc từ một cha mẹ, Adam và Eve, đôi bạn được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài (xem St 1,26), từ họ, Cain và A-ben được sinh ra. Trong lịch sử của gia đình đầu tiên này, chúng ta nhìn thấy nguồn gốc của xã hội và sự tiến triển của các mối tương quan giữa các cá nhân và dân tộc.

 

A-ben là một người chăn cừu, Cain là một người trồng trọt. Căn tính sâu sắc của họ và ơn gọi của họ chính là anh em bất chấp sự đa dạng trong hoạt động và văn hóa, trong cách thức họ tương quan với Thiên Chúa và tạo vật. Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu chuyện của họ (xem. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác. Cain vì không thể chấp nhận việc Thiên Chúa yêu mến A-ben hơn, vì A-ben đã dâng cho Ngài lễ vật tốt nhất, - “Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt (St 4,4-5) – nên đã giết A-ben vì ghen tị. Theo cách này, ông từ chối xem A-ben là anh em, có mối liên hệ đúng đắn với A-ben và sống trong sự hiện diện của Thiên Cháu bằng cách đón nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ người khác. Khi Thiên Chúa hỏi Cain “Em ngươi đâu?” (St 4,9), Thiên Chúa muốn Cain giải thích điều ông đã làm. Ông trả lời: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao? "

. Sau đó, sách Sáng Thế nói cho chúng ta biết, “Ông Cain đi xa khuất mặt Ðức Chúa” (4:16).

 

Chúng ta tự hỏi đâu là lý do đích thực khiến Cain xem thường mối tương quan huynh đệ và, đồng thời, mối tương quan hỗ tương và huynh đệ nối kết ông với em mình là A-ben. Chính Thiên Chúa đã kết án và quở trách Cain vì ông đã thông đồng với sự dữ: “tội lỗi đang nằm phục ở cửa” (St 4,7). Nhưng Cain đã khước từ, ông đồng lõa với sự dữ và quyết định “xông đến giết A-ben, em mình.” (St 4,8), như thế là ông xem thường kế hoạch của Thiên Chúa. Và như thế, ông đã phá vỡ lời mời gọi ban sơ của mình để trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong tình huynh đệ.

 

Câu chuyện của Cain và A-ben dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta có một lời mời gọi huynh đệ, nhưng nó cũng có thể trở thành thảm kịch khi phản bội lại lời mời gọi này. Điều này được chứng thực bởi những hành động ích kỷ hàng ngày của chúng ta, chúng là nguồn gốc của quá nhiều chiến tranh và bất công: nhiều người nam và người nữ đã chết dưới bàn tay của anh chị em mình, những người không có khả năng để nhận ra nơi người khác như chính họ là, nghĩa là như là những hữu thể được dựng nên trong mối tương quan với người khác, trong sự hiệp thông và trao ban.

 

“Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8)

 

3. Một câu hỏi tự nhiên nảy sinh là: Người nam và người nữ trên thế giới này có khả năng để đáp trả một cách trọn vẹn khao khát tình huynh đệ mà Thiên Chúa là Cha đã đặt để trong họ không? Họ sẽ tự mình nỗ lực bởi chính khả năng của họ để vượt qua sự khác biệt, ích kỷ và ghen ghét và đón nhận những khác biệt chính đáng nơi anh chị em mình không?

 

Nhờ vào việc diễn giải lời của Đức Giê-su, chúng ta có thể tóm tắt câu trả lời mà Ngài đã đưa ra: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (xem Mt 23,8-9). Nền tảng của tình huynh đệ được dựa trên tình phụ tử của Thiên Chúa. Chúng ta không nói về tình phụ tử giống loài, đầy mơ hồ và bất toàn trong lịch sử, nhưng đúng hơn là một tình yêu cụ thể đầy trổi vượt và đặc biệt của Thiên Chúa dành cho mỗi người nam và nữ (xem Mt 6,25-30). Vì thế, chính tình phụ tử ấy làm nảy sinh một cách hiệu quả tình huynh đệ, bởi vì tình yêu Thiên Chúa, một khi được đón nhận, trở thành một phương tiện lớn lao biến đổi đời sống chúng ta và các mối tương quan của chúng ta với người khác, giúp chúng ta mở mình ra với tình liên đới và sự chia sẻ đích thực.

 

Trong một cách cụ thể, tình huynh đệ nhân loại được tái tạo trong và qua Đức Giê-su Ki-tô, qua cái chết và phục sinh của Người. Thánh giá chính là điểm nền tảng cuối cùng mà con người không thể tự mình tái tạo nên. Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã mặc lấy bản chất con người để cứu độ nó, yêu mến Chúa Cha cho đến chết trên Thập Giá (xem Pl 2,8), qua sự phục sinh của mình đã biến chúng ta thành một nhân loại mới, trong sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, với kế hoạch của Người, bao gồm một sự hiện thực hóa trọn vẹn ơn gọi làm huynh đệ.

 

Từ khởi đầu, Đức Giê-su đã đón nhận kế hoạch của Cha, thừa nhận tính ưu việt của nó trên mọi sự. Nhưng Đức Ki-tô, khi từ bỏ chính mình cho đến chết vì tình yêu dành cho Cha, Ngài đã trở thành nguyên lý chung kết và mới mẻ dành cho tất cả chúng ta; trong Ngài, chúng ta được mời gọi để đối xử với nhau như anh chị em, bởi vì chúng ta là con cái của cùng một Cha. Chính Ngài là Giao ước; nơi Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau như anh chị em. Cái chết của Đức Giê-su trên Thập giá cũng chấm dứt sự chia cách giữa mọi người, giữa dân của Giao ước và Dân Ngoại, những người cho đến giây phút đó không còn hy vọng, vì họ không phải là một phần của Lời hứa. Như chúng ta đọc thấy trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô, Đức Giê-su Ki-tô là Đấng hòa giải mọi người nơi chính Ngài. Ngài chính là sự bình an, vì Ngài làm hai người trở nên một, phá vỡ bức tường phân cách chia rẽ họ, là sự thù nghịch giữa họ. Ngài đã tạo nên nơi chính mình một dân, một con người mới, một nhân loại mới (xem 2,14-16).

 

Tất cả những ai đón nhận đời sống của Đức Ki-tô và sống nơi Ngài biết rằng Thiên Chúa là Cha và họ sẽ trao ban trọn vẹn thân mình cho Ngài, bằng cách yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Một người đã được hòa giải sẽ nhận ra Thiên Chúa là Cha của mọi người, và kết quả là, họ được mời gọi để sống đời sống đệ huynh dành cho hết mọi người. Nơi Đức Ki-tô, người khác được chào đón và được yêu thương như người con trai hay con gái của Thiên Chúa, như một người chị, một người anh, chứ không phải như người xa lạ, hay tệ hơn là như một kẻ đối địch và thậm chí là kẻ thù. Trong gia đình của Thiên Chúa, nơi mọi người con trai và con gái có cùng một Cha, và vì họ được tháp nhập vào Chúa Ki-tô, những người con trai và con gái này sẽ ở trong Người Con, không phải là “đời sống đáng vứt đi”. Tất cả người nam và nữ chung hưởng một phẩm giá như nhau và không ai có thể xâm phạm được. Mọi người đều được Thiên Chúa yêu mến. Mọi người đều được cứu chuộc bởi máu của Đức Ki-tô, Đấng đã chết trên Thập giá và đã sống lại vì hết thảy chúng ta. Đây chính là lý do tại sao không ai có thể tiếp tục dửng dưng trước số phận của anh chị em mình.

 

Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình

 

4. Điều này muốn nói rằng, thật dễ để nhận ra rằng tình huynh đệ chính là nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình. Liên quan đến vấn đề này, các thông điệp xã hội mà các vị tiền nhiệm của tôi đã viết trở nên hữu ích. Có lẽ chỉ cần trích dẫn lại những định nghĩa về hòa bình trong các Thông điệp Populorum Progressio của Đức Thánh Cha Phaolô VI và Sollicitudo Rei Socialis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì đã khá đầy đủ. Qua thông điệp thứ nhất, chúng ta biết rằng sự phát triển hội nhất của các dân tộc là một danh xưng mới của nền hòa bình.[3] Từ thông điệp thứ hai, chúng ta kết luận rằng hòa bình là thành quả của sự liên đới (Opus solidaritatis pax).[4]

 

Đức Phaolô VI đã trình bày rằng, không chỉ cá nhân mà các quốc gia cũng phải gặp gỡ nhau trong tình huynh đệ. Ngài nói: “Trong tình bạn và trong sự hiểu biết lẫn nhau, trong sự hiệp thông thánh này, chúng ta cũng phải… cùng nhau lao tác để xây dựng tương lai chung cho nhân loại”.[5] Trước hết, nhiệm vụ này dành cho những người được ưu tuyển. Trách nhiệm của họ được cắm rễ sâu trong tình huynh đệ nhân loại và mang tính siêu vượt, và được biểu lộ trong ba cách: bổn phận liên đới, vốn đòi hỏi các nước giàu hơn trợ giúp các nước kém phát triển hơn; bổn phận công bình xã hội, cần tổ chức lại các mối tương quan giữa kẻ mạnh hơn và người yếu thế hơn để có sự công bằng hơn; và bổn phận đức ái chung, bao gồm sự thăng tiến một thế giới nhân bản hơn dành cho mọi người, một thế giới mà nơi ấy mỗi người có một điều gì đó để trao và nhận, mà không xem sự thăng tiến của người này là sự cản trở cho sự phát triển của người khác.[6]

 

Vậy, nếu chúng ta xem hòa bình là thành quả của sự liên đới, chúng ta không thể không ý thức rằng tình huynh đệ chính là nguyên lý nền tảng của nó. Hòa bình, như ĐTC Gioan Phaolô II khẳng định, là một sự thiện không thể phân chia. Nó là một sự thiện dành cho tất cả và nó cũng là một sự thiện không thuộc về ai. Hòa bình chỉ có thể đạt được và được hưởng dùng, như là một phẩm chất cao nhất của đời sống và một sự phát triển bền vững của nhân loại, nếu tất cả mọi người được hướng dẫn bởi tình liên đới như “là một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ trong việc dấn thân cho lợi ích chung”.[7] Điều này có nghĩa là đừng để mình được hướng dẫn bởi “ham hố lợi nhuận” hay “khao khát quyền lực”. Điều cần thiết là khao khát “từ bỏ chính mình” vì lợi ích của người khác hơn là khai thác họ, và “phục vụ họ” thay vì áp bức họ vì lợi ích của bản thân mình. “Tha nhân” – cho dẫu là một người hay một quốc gia – không được xem như một loại công cụ, với khả năng làm việc hay sức mạnh thể lý được khai thác với chi phí rẻ mạt, và rồi loại bỏ khi không còn hữu dụng, nhưng là như “đồng loại của chúng ta”, một “trợ tá.”[8]

 

Tình liên đới Kitô giáo giả thiết rằng tha nhân cần được yêu mến không chỉ “là một con người với những quyền lợi và sự bình đẳng căn bản đối với mọi người, mà còn trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Đức Kitô cứu chuộc và là đối tượng hoạt động của Chúa Thánh Thần”,[9] như biết bao nhiêu anh chị em khác. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lưu ý: “Lúc đó ý thức về tình phụ tử chung của Thiên Chúa, về tình huynh đệ của mọi người trong Đức Kitô, ‘những người con trong Chúa Con’, về sự hiện diện và họat động ban sự sống của Chúa Thánh Thần, đem lại cho cái nhìn của chúng ta về thế giới một tiêu chuẩn mới để giải thích nó,”[10] để thay đổi nó.

 

Tình huynh đệ, một đòi hỏi cho cuộc chiến chống đói nghèo

 

5. Trong Thông Điệp Bác ái trong Chân Lý, vị tiền nhiệm của tôi đã nhắc nhở thế giới về sự thiếu hụt tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa người nam và nữ là một nguyên nhân quan trọng của nghèo đói.[11] Trong nhiều xã hội, chúng ta kinh nghiệm về một sự nghèo nàn về các mối tương quan là kết quả của việc thiếu các mối tương quan vững chắc trong gia đình và xã hội. Chúng ta bận tâm nhiều đến các khó khăn, bị gạt ra bên lề, cô lập và các chứng phụ thuộc bệnh lý ngày càng gia tăng. Loại nghèo khó này chỉ có thể vượt qua nhờ vào việc tái khám phá và tôn trọng các mối tương quan huynh đệ trong trái tim của các gia đình và cộng đoàn, thông qua sự chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những thất bại cũng như thành công, vốn là một phần của đời sống con người.

 

Hơn nữa, nếu như một mặt chúng ta đang chứng kiến một sự giảm sút trong nghèo khó thuần túy, thì mặc khác, chúng ta cũng không thể không nhận ra rằng có một sự gia tăng rất nghiêm trọng về tình trạng nghèo đói tương đối, nghĩa là những bất công giữa những người và giữa các nhóm cùng chung sống trong một vùng cụ thể hay trong một bối cảnh văn hóa lịch sử xác định. Trong ý nghĩa này, các chính sách hiệu quả cần thăng tiến nguyên lý huynh đệ, nhằm đảm bảo cho con người – những người bình đẳng trong phẩm giá và trong các quyền nền tảng – có thể tiếp cận đến các nguồn vốn, các dịch vụ, hệ thống giáo dục, sức khỏe và kỹ thuật để mỗi người có cơ hội diễn tả và hiện thực hóa dự án đời sống mình và có thể phát triển một cách trọn vẹn như một con người.

 

Một người cũng thấy rất cần có những chính sách nhằm giảm thiểu một sự bất công quá lớn trong thu nhập. Chúng ta đừng quên rằng Giáo huấn của Giáo Hội về điều được gọi là khế ước xã hội, mà cho rằng, như thánh Tôma Aquinô nói, điều hợp luật và thực sự cần thiết là “người ta có quyền sở hữu”,[12] trong những gì liên quan đến việc sử dụng của mình, “họ sở hữu chúng không giống như tài sản của mình nhưng cũng là tài sản chung cho người khác, nghĩa là chúng có thể mang lại lợi ích cho người khác cũng như chính bản thân họ”.[13]

 

Cuối cùng, có một cách thức khác để thăng tiến tình huynh đệ - và thực sự đánh bại sự nghèo đói – mà cũng là nền tảng của tất cả những điều khác. Nó là sự tách mình ra của những người chọn một lời sống đơn sơ và đích thực, của những người mà, bằng cách chia sẻ tài sản của mình, họ thực sự đang cố gắng để kinh nghiệm sự hiệp thông huynh đệ với người khác. Đây chính là nền tảng cho việc theo Đức Ki-tô và trở nên Ki-tô hữu đích thực. Đây không chỉ là trường hợp của những người sống đời sống thánh hiến, những người tuyên khấn lời khấn nghèo khó, nhưng là của biết bao nhiêu gia đình và người dân đầy trách nhiệm, những người xác tín rằng, chính mối tương quan huynh đệ của họ với tha nhân mới hình thành nên sự thiện quý giá nhất.

 

Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế

 

6. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng trong thời gian gần đây – mà nhận ra gốc rễ của chúng chính là con người dần lạc xa Thiên Chúa và tha nhân, một mặt là do việc theo đuổi những của cải vật chất, và mặt khác là do sự bần cùng hóa các mối tương quan liên vị và cộng đoàn – đã thúc đẩy con người tìm kiếm sự thỏa mãn, hạnh phúc và an toàn trong việc tiêu thụ và lợi lộc từ tất cả những gì liên quan đến các nguyên lý của một nền kinh tế vững mạnh. Vào năm 1979, ĐTC Gioan Phaolô II đã mời gọi mọi người lưu ý tới “một lối nhận thức thật sự nguy hại là, trong khi sự thống trị của con người trên thế giới sự vật đang có những bước tiến lớn lao, thì trong sự thống trị của mình, con người đang dần đánh mất những mối dây thiết yếu và trong những cách thế khác nhau, bản tính nhân loại đang bị lệ thuộc vào thế giới và tự mình trở nên một điều phụ thuộc và bị sử dụng, và thậm chí việc sử dụng này không được nhận thức một cách đúng đắn – thông qua toàn thể tổ chức đời sống cộng đoàn, qua hệ thống sản xuất và áp lực từ các phương tiện truyền thông xã hội.”[14]

 

Các cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau nói cho chúng ta biết chúng ta cần suy nghĩ lại về những khuôn mẫu phát triển kinh tế của chúng ta và tiến tới một sự thay đổi trong cách sống. Các cuộc khủng hoảng ngày nay, thậm chí với những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống con người, cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội quý giá để tái khám phá các nhân đức khôn ngoan, tiết độ, công bình và can đảm. Các nhân đức này có thể giúp chúng ta vượt qua những thời khắc khó khăn để tái khám phá mối dây huynh đệ nối kết chúng ta với người khác, với một niềm tin tưởng sâu sắc rằng con người cần và có khả năng đạt được điều gì lớn hơn là việc tối đa hóa lợi ích cá nhân. Trên hết, các nhân đức này cần thiết để xây dựng và giữ gìn một xã hội hợp với phẩm giá con người.

 

Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh

 

7. Trong năm qua, nhiều anh chị em của chúng ta tiếp tục phải gánh chịu kinh nghiệm hủy hoại của chiến tranh, gây nên một vết thương sâu và nghiêm trọng ảnh hưởng đến tình huynh đệ. Nhiều cuộc xung đột đang diễn ra giữa sự thờ ơ chung. Với những anh chị em đang sống trong những vùng đất nơi đó vũ khí áp đặt khủng bố và sự hủy diệt, tôi đảm bảo sự gần gũi cá nhân tôi và sự gần gũi của toàn thể Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội là mang tình yêu của Chúa Ki-tô đến với những nạn nhân không có khả năng tự vệ, bị lãng quên bởi chiến tranh thông qua lời cầu nguyện cho sự hòa bình, qua sự phục vụ cho những người bị thương tích, đói kém, di dân, những người phải thay đổi nơi ở và tất cả những người đang sống trong sợ hãi. Giáo Hội cũng sẽ lên tiếng để giúp các vị lãnh đạo lắng nghe được tiếng khóc than của những người đang gặp đau khổ và đặt một dấu chấm hết cho mọi hình thức của hận thù, lạm dụng và bạo lực đối với các quyền nền tảng của con người.[15]

 

Vì lý do này, tôi mạnh mẽ khuyến cáo những ai gieo rắc bạo lực và cái chết bằng sức mạnh của vũ khí: Trong con người mà hôm nay bạn chỉ thấy đơn thuần là một kẻ thù bị đánh đập, hãy khám phá ra rằng họ là anh chị em của bạn, và hãy ôm họ vào vòng tay bạn! Hãy từ bỏ những con đường của vũ khí và đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong đối thoại, tha thứ và hòa giải, để tái xây dựng hòa bình, tin tưởng và hy vọng xung quanh bạn! “Từ quan điểm này, rõ ràng là, đối với các dân tộc trên thế giới, xung đột vũ trang luôn luôn là một sự phủ định có chủ ý đối với sự hòa hợp quốc tế, và tạo ra sự chia rẽ sâu sắc và những vết thương sâu đòi hỏi nhiều năm để chữa lành. Chiến tranh là một sự khước từ cụ thể trong việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế và xã hội to lớn mà cộng đồng quốc tế đã đề ra".[16]

 

Dầu vậy, bao lâu vẫn còn lượng vũ khí rất lớn đang lưu hành như hiện nay, những cái cớ mới có thể luôn được tìm thấy để bắt đầu hận thù. Vì lý do này, chính bản thân tôi cũng như các vị tiền nhiệm của tôi khẩn khoản mời gọi hạn chế sử dụng vũ khí giết người hàng loạt và các bên cần giải trừ quân bị, bắt đầu với việc giải trừ vũ khí hạt nhân và hóa học.

 

Tuy chúng ta không thể không nhận ra rằng các thỏa thuận và các luật lệ quốc tế - là điều cần thiết và rất đáng ao ước – nhưng tự chúng không đủ để bảo vệ con người ra khỏi những rủi ro của xung đột vũ trang. Một cuộc hoán cải con tim cần thiết sẽ cho phép mỗi người nhận ra nơi người khác là người anh người chị cần chăm sóc, và để cùng làm việc với nhau trong việc xây dựng một đời sống viên mãn cho mọi người. Chính tinh thần này đã gợi hứng cho nhiều sáng kiến trong xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức tôn giáo trong việc thăng tiến hòa bình. Tôi bày tỏ hy vọng rằng các cam kết hàng ngày sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái và áp dụng hiệu quả trong luật pháp quốc tế về quyền đối với hòa bình, như là một quyền cơ bản của con người và điều kiện tiên quyết cần thiết cho tất cả các quyền khác.

 

Tham nhũng và tội ác có tổ chức đe dọa tình huynh đệ

 

8. Chiều kích huynh đệ là điều cần thiết cho sự hoàn thiện của mỗi người nam và nữ. Những tham vọng hợp lý của con người, đặc biệt nơi những người trẻ, không nên bị cản trở hay chống đối, người ta cũng không nên bị cướp đi niềm hy vọng hiện thực hóa những tham vọng này. Dầu vậy, tham vọng không được lẫn lộn với việc lạm dụng quyền lực. Trái lại, mọi người cần thương mến nhau với tình huynh đệ (xem Rm 12,10). Trong những bất đồng, là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ rằng chúng ta là anh chị em, và do đó cần khuyên nhủ người khác và khuyên nhủ nhau để không xem tha nhân là kẻ thù hay một địch thủ cần bị loại trừ.

 

Tình huynh đệ tạo ra bình an cho xã hội bởi vì nó tạo ra một sự quân bình giữa tự do và công bình, giữa trách nhiệm cá nhân và liên đới, giữa lợi ích cá nhân và ích chung. Và vì thế, một cộng đồng chính trị cần hoạt động trong một cách thức rõ ràng và trách nhiệm để hỗ trợ cho điều này. Các công dân phải cảm thấy mình là người đại biểu của chính quyền công cộng liên quan đến tự do của mình. Nhưng lợi ích của các bên đã chen vào giữa công dân và các tổ chức và phá vỡ mối quan hệ đó, điều này đã thúc đẩy tạo ra một bầu khí xung đột lâu dài.

 

Một tình huynh đệ đích thực vượt qua sự ích kỷ cá nhân, điều vốn xung đột với khả năng con người sống trong tự do và hòa hợp với nhau. Sự ích kỷ như thế phát triển về mặt xã hội – cho dẫu nó ở dưới nhiều hình thức của tham nhũng, rất phổ biến ngày nay, hay trong sự huấn luyện của các tổ chức tội ác, từ những nhóm nhỏ đến những nhóm được tổ chức trên phạm vi toàn cầu. Các nhóm này phá vỡ các luật lệ và công bình, đụng chạm đến trái tim của phẩm giá con người. Các tổ chức này chống lại Thiên Chúa một cách nghiêm trọng, họ làm tổn thương người khác và làm hại đến công trình sáng tạo, điều này càng nghiêm trọng hơn khi chúng có âm điệu tôn giáo.

 

Tôi cũng nghĩ về thảm kịch đau lòng về việc lạm dụng thuốc nhằm mang về lợi nhuận mà xem thường các luật luân lý và dân sự. Tôi nghĩ về sự tàn phá các nguồn lực tự nhiên và sự ô nhiễm vẫn còn tiếp diễn, và thảm kịch bóc lột lao động. Tôi cũng nghĩ đến nạn buôn tiền bất hợp pháp và sự đầu cơ tài chính, là điều thường minh chứng cho việc bóc lột cũng như gây thiệt hại cho toàn thể hệ thống kinh tế xã hội. Tôi nghĩ về tệ nạn mãi dâm, mỗi ngày thu lợi từ những nạn nhân vô tội, đặc biệt là người trẻ, cướp đi tương lai của họ. Tôi nghĩ về sự kinh tởm của nạn buôn người, các tội ác, và lạm dụng chống lại các dân tộc thiểu số, nỗi kinh hoàng của tình trạng nô lệ vẫn con hiện diện ở nhiều nơi trong thế giới hôm nay; thảm kịch của người di dân thường bị xem nhẹ, họ là những nạn nhân thường xuyên của việc đối xử bất công và bất hợp pháp. Như Đức Thánh Cha Gioan 23 đã viết: “Con người không thể tồn tại trong một xã hội chỉ dựa trên các mối tương quan quyền lực. Thay vì khích lệ sự thành tựu và phát triển của con người như nó nên làm, quyền lực thường cản trở và hạn chế tự do của con người”.[17] Nhưng con người có thể hoán cải; họ sẽ không bao giờ phải thất vọng vì họ có thể thay đổi cuộc sống của mình. Tôi ước mong điều này trở thành một sứ điệp hy vọng và tin tưởng cho mọi người, kể cả những ai đang phạm những tội ác tày trời, vì Thiên Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (xem Ed 18,23).


Trở lại      In      Số lần xem: 2919
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  23
 Hôm nay:  2711
 Hôm qua:  3165
 Tuần trước:  20555
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12339587

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn