Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Bộ Giáo Luật: Quyển IV- Nhiệm Vụ Thánh Hóa Của Giáo Hội - Điều 1183 - 1248

Bộ Giáo Luật: Quyển IV- Nhiệm Vụ Thánh Hóa Của Giáo Hội - Điều 1183 - 1248

Quyển IV. Nhiệm Vụ Thánh Hoá Của Giáo Hội điều 1183 - 1248

CHƯƠNG 2: NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC HOẶC KHÔNG ĐƯỢC AN TÁNG THEO NGHI THỨC GIÁO HỘI

Điều 1183

#1. Về những gì gì liên quan đến việc mai táng,các người dự tòng phải được coi như các Kitô hữu.

#2. Đấng Bản Quyền địa phương   có thể ban phép cử hành an táng theo nghi thức Giáo Hội cho những nhi đồng nào cha mẹ đã có ý xin Rửa Tội, nhưng đã chết trước khi được Rửa Tội.

#3. Tùy việc xét đoán khôn ngoan của mình, Đấng Bản Quyền địa phương có thể ban phép cử hành an táng theo nghi thức Giáo Hội cho những người đã được Rửa Tội trong một Giáo Hội hoặc một cộng đoàn Giáo Hội hko6ng Công Giáo, trừ khi thấy rõ họ muốn  cách khác và với điều kiện là không thể có được thừa tác viên riêng của họ.

Điều 1184

#1. Trừ khi đã biểu lộ chỉu sám hối nào đó trước khi đã qua đời, những người sau đây không được an táng theo nghi thức Giáo Hội;

10 những người bội giáo, những người lạc giáo, và những người ly giáo hiển nhiên;

20 những người đã chọn hỏa táng thi hài mình  vì những lý do nghịch với đức tin Kitô giáo;

30 những tội  nhân hiển nhiên khác, mà việc an táng theo nghi thức Giáo Hội không thể không sinh gương xấu công khai cho tín hữu.

#2. Nếu nảy sinh một hồ nghi nào, thì phải than khảo ý kiến của Đấng BẢn Quyền địa phương và phải tuân theo phán quyết của ngài.

Điều 1185

Cũng phải từ chối bất cứ Thánh Lễ an táng nào đối với người bị tước quyền được an táng theo nghi thức Giáo Hội.

ĐỀ MỤC 4: TÔN KÍNH CÁC THÁNH ẢNH TƯỢNG THÁNH VÀ CÁC BÍ TÍCH

Điều 1186

Để cổ vũ việc hánh hóa đoàn dân Chúa, Giáo Hội khuyên nhủ các Kitô hữu hãy lấy tình con thảo mà tôn kính đ ặc biệt Đức Maria  rất thánh trọn đời đồng trinh, là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng đã được Đức Kitô đặt là Mẹ mọi người, và Giáo Hội cổ vũ lòng sùng kính thành thật  và chân chính đối với các vị thánh khác, là những Đấng thực ra đang dạy dỗ cácKitô hữu bằng gương sáng của mình và đang nâng đỡ họ bằng việc nguyện giúp cầu thay.

Điều 1187

Chỉ được phép công khai  tôn kính những vị Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được quyền bính Giáo ghi vào sổ các bậc Hiển Thánh hay các Chân Phước.

Điều 1188

Phải duy trì thói quen trưng bày các ảnh tượng các thánh trong các nhà thờ, để các tín hữu tôn kính, tuy nhiên phải trưng bày các ảnh tượng ấy với số lượng chừng mực và  theo một thứ tự thích hợp, để không ai bỡ ngỡ cho dân Kitô giáo không bị tạo dịp cho lòng sùng kính mất tính cách chân chính.

Điều 1189

Khi cần phải sửa chữa các ảnh tưỡng quý giá, tức là các ảnh tượng nổi tiếng về tính cách cổ kính, vì giá trị nghệ thuật hay vì là đồ vật dành cho việc phụng tự, và được trưng bày trong các nhà thờ hay nhà nguyện để cho tín hữu tôn kính, thì không bao giờ được phục chế, nếu không có phép bằng văn bản của Đấng Bản Quyền, mà trước khi ban,ngài phải tham khảo ý kiến cuả những chuyên viên

Điều 1190

#1. Tuyệt đối cấm bán các thánh tích.

#2. Các thánh tích nổi tiếng và những thánh tích khác được dân chúng đặc biệt tôn  kính không thể chuyển nhượng thành sự bằng bất cứ cách nào và cũng không thể được chuyển nhượng thành sự bằng bất cứ cách  nào và cũng không thể được chuyển nhượng thành sự bằng bất cứ nào và cũng không thể được di chuyển vĩnh viễn đến nơi  khác, nếu không có phép của Tông Tòa.

#3.Quy định của #2 cũng có giá trị đối với những ảnh tượng được dân chúng tôn kính đặc biệt trong một nhà thờ nào đó.

ĐỀ MỤC 5: LỜI KHẤN VÀ LỜI THỀ

CHƯƠNG 1: LỜI KHẤN

Điều 1191

#1. Lời khấn tức là lời hứa có suy nghĩ và tự do với Thiên Chúa về một ích lợi khả thi và tốt hơn; vì thuộc về hân đức thờ phượng, lời khấn được thực hiện.

#2. Trừ khi bị luật cấm, tất c ả mọi người biết sử dụng đủ trí khôn, đều có thể khấn.

#3. Lời khấn được tuyên hứa do một sự sợ hãi nghiêm trọng và bất công hay do man trá, thì đương nhiên bất thành.

Điều 1192

#1. Lời khấn là công, nếu được Bề Trên hợp pháp chấp nhận nhân danh giáo Hội; nếu không thì lời khấn là tư.

#2.Lời khấn là trọng, nếu được Giáo Hội công nhận như vậy, nếu không thì lời khấn là đơn.

#3. Lời khấn và tòng nhân, khi người khấn cam đoan thực hiện môt việc gì đó, lời khấn là tòng vật, khi hứa một vật gì đó; lời khấn là hổn hợp, nếu đồng thời mang bản chất của lời khấn tòng nhân và của lời khấn tòng vật.

Điều 1193

Lời khấn tự nó chỉ buộc người khấn mà thôi.

Điều 1194

Lời khấn chấm dứt do mãn thời hạn ấn định để chu toàn nghĩa vụ, do thay đổi về nội dung của lời khấn, do thiếu điều kiện mà lời khấn t2uy thuộc vào, do mục đích của lời khấn không còn, do được miễn chuẩn hoặc do được thay thế.

Điều 1195

Người nào có quyền trên nội dung lời khấn, thì có thể đình chỉ tính cách bó buộc của lời khấn, bao lâu việc thi hành lời khấn gây thiệt hại cho mình.

Điều 1196

Ngoài Đức Giáo Hoàng Rôma, những vị sau đây đều có thể miễn chuẩn lời khấn tư vì một lý do chính đáng, miễn là việc miễn chuẩn không làm tổn thương đến quyền lợi thủ đắc của người khác;

10 Đấng Bản Quyền  địa phương và cha sở đối với tất cả những người thuộc quyền mình, cũng như đối với những người ngoại cư;

20 Bề Trên của một hội dòng hoặc một tu đoàn  tông đồ đối với những thành viên, những tập sinh và những người ngày đêm cư ngụ trong nhà mình, nếu là một hội dòng hoặc một tu đoàn thuộc luật giáo hoàng;

30 những vị được Tông Tòa hay Đấng Bản Quyền địa phương ủy quyền miễn chuẩn.

Điều 1197

Chính người khấn có thể thay thế việc đã hứa do lời khấn tư bằng một việc tốt hơn hay tương đương; nhưng người có quyền miễn chuẩn có thể thay thế bằng một việc tốt nhỏ hơn, chiếu theo quy tắc của điều 1196.

Điều 1198

Những lời khấn đã được tuyên hứa trước khi  khấn dòng được đình chỉ bao lâu người khấn còn ở trong hội dòng.

CHƯƠNG 2: LỜI  THỀ

Điều 1199

 # 1.Lời thề tức là lời kêu cầu danh Chúa làm chứng cho chân lý, chỉ có được tuyên thệ trong  sự thật, trong sự suy xét và  trong công  lý.

#2. Lời thề do giáo luật yêu cầu đựơc giáo luật chấp nhận không thể được tuyên thệ thành sự thành sự qua người đại diện.

Điều 1200

#1. Người nào tự do thề rằngmình sẽ làm việc gì đó, thì buộc phải thực hiệnđiều mình đã thực hiệnđiều mình đã quả quyết bằng lời thề, do sự đòi buộcđặc biệt của đức thờ phựơng .

#2. Lời thề bị ép buộc do lừa gạt, do bạo lực hoặc do sợ hãi nghiêm trọng, thì đương nhiên bất thành.

Điều 1201

#1. Lời thề có tính hứa hẹn  đi theo bản chất và những điều kiện của hành vi liên hệ đến lời thề ấy.

#2. Nếu lời thề liên hệ đến một hành vi trực tiếp làm hại người khác, hoặc làm tổn thương công ích hay phần rỗi đời đời, thi hành vi nầy không có thể có một hiệu lực nào của lời thề ấy.

Điều 1202

 Nghĩa vụ phát sinh do lời thề có tính cách hứa hẹn chấm dứt:

10 nếu được người mà lời thề  đã được tuyên thệ vì lợi của họ miễn xá cho.

20 nếu nội dung lời thề đã thay đổi, hoặc nếu nghĩa vụ trở nên tồi tệhay hoàn toàn vô thưởng vô phạt do hoàn cảnh đã thay đổi, hoặc sau hết, nếunghĩa vụ ngăn cản một lợi ích lớn  hơn;

30  nếu thiếu mục đích và điều kiện vì đó mà lời thề đã được tuyên thệ.

40 nếu được miễn chuẩn hay được thay thế, chiếu theo quy tắc của điều 1203.

Điều 1203

Những vị có htể đình chỉ, miễn chuẩn hay thay thế một lời khấn, thì cũng có quyền như vậy và theo cùng một cách thức đối với lời thề có tính cách  hứa hẹn, nhưng nếu được miễn chuẩn đều gây thiệt hại cho những người khác, và họ từ chối giải trừ nghĩa vụ, thì chỉ một mình Tông Toà mới có thể miễn chuẩnlời thề ấy.

Điều 1204

Theo luật lời thềphải được giải thich theo nghĩa hẹpvà theo chủ ý của người thề, hoặcnếu người thể tuyyên thệ vì man trá, thì phải  theo chủ ý của nhận lời thề.

PHẦN III: NƠI THÁNH VÀ THỜI GIAN THÁNH

ĐỀ MỤC 1: NƠI THÁNH

Điều 1205

Nơi thánh lànhững nơi đã đượccung hiếhay được phép theo quy định của các sách phụng vụ, để dùng vào việc thờ phượng Thiên Chúahay đề mai táng các tín hữu.

Điều 1206

Việc cung hiến một nơi nào đó thuộc về Giám Mục giáo phận và những vị được luật coi  là tưong đương với GiámMục; các vị này có thể uỷ quyền cho bất cứ Giám Mục nào, hay cho một linh mục nào đó trong những trường hợp ngoại lệ, để thực hiện nghi thức cung hiến trong địa hạt riêng của mình.

Điều1207

Đấng BaÛn Quyền  làm phép các nơi thánh,  nhưng việc làm phép các nhà thờ thì được dành riêng cho Giám Mục  giáo phận cả hai vị đều có quyền cho một tư  tế khác để làm việc ấy.

Điều 1208

Sau khi đã cung hiến hay phép nhà thờ, cũng như sau khi đã làm phép nghĩa địa, phải soạn thảo một chứng thư về việc ấy, một bản được lưu giũ tại toà giám mụcvà một bản khác tại văn khố của nhà thờ.

Điều 1209

Việc cung hiến hay làm phép một nơi nào đó chỉ cần có một  nhân chứngđáng tin làm chứng là đủ, miễn là việc làm chứng này không làm thiệt hại ai cả.

Điều 1210

Trong một nơi thánh chỉ  được phép làm  nhũng việc giúp thi hành hay thăng tiến việc thờ phượng, lòng đạo đức và tôn giáo, và cấm làm bất cứ  điều gìkhông xứng hợp với sự thánh thiện của nơi thánh. Tuy nhiên Đấng Bản Quyền  có thể cho phép sử dụng từng lần vào các việc khác, miễn là không nghịch với sự thánh thiện của nơi thánh.

Điều 1211

 Những nơi thánh bị xúc phạm do nhũng hành vi vì bất xứng nghiêm trọng đã phạm tại đó và đã gây gương xấu  cho các tín hữu, theo sự phán đoán của Đấng Bản Quyền địa phương những  hành vi  có tính cách nghiêm trọng và nghịch với sự thánh thiện của nơi thánh, đến nỗi không được phép cử hành thờ phượng tại đó nữa, cho đến khi đền bù lại  sự bất xứng đó bằng nghi thức sám hối  chiếu theo quy tắc của sách phụng vụ.

Điều 1212

Những nơi thánh mất tính cách đã được cung hiến hay đã được làm phép, nếu phần lớnđã bị phá hủy,hoặc được sử dụng vào những việc phàm tục một cách thường xuyên, hoặc do sắc lệnh của Đấng Bản Quyền co1tha63m quyền, hoặc do thực tế.

Điều 1213

Nhà chức trách Giáo Hội được tự do thi hành các quyền và ca1cnhie65m vụ của mình trong nơi thánh .

 CHƯƠNG 1:  NHÀ THỜ

 Điều 1214

 Được hiểu là một tòa nhà thánh dành  riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa, nhà thờ là nơi các tín hữu có quyền vào để thi hành  việc thờ phượng Thiên Chúa, nhất là việc thờ phượng công.

Điều 1215

#1. Không được xây dựng nhà thờ, nếu không có sự chấp nhận minh nhiên bằng văn bản của Giám Mục giáo phận.

#2.Giám Mục giáo phận chỉ nên chấp thuận, nếu sau khi đã tham khảo ý kiến của hội đồng linh mục và các vị quản nhiệm  nhà thờ lân cận, ngài xét thấy là nhà thờ có thể đem lại lợi ích cho  các linh hồn, và sẽ không thiếu  những phương tiện cần thiết  để xây dựng nhà thờ cũng như đểthi hành việc thờ phượng  Thiên Chúa.

#3. dù đã được Giám  giáo  phận chấp thuận  cho phép thiết lập nhà mới trong giáo phận hay trong thành phố của  ngài, các hội dòng cũng phải  cũng có phép của ngài trước khi  xây dựng nhà thờ ở một nơi đích  xác và nhất định.

Điều 1216

 Khi xây dựng và sửa chữa nhà thờ, ngoài việc hỏi ý các chuyên viên, phải giữ những nguyên tắc  và quy tắc phụng vụ và nghệ thuật thánh.

Điều 1217

#1. Một khi đã được xây  dựng xong, nhà thờ mới phải được cung cấp  sớm hết sức, hoặc ít là phải được phép, theo luật phụng vụ thánh.

#2. Các nhà thờ, nhất là nhà thờ chính tòa và  nhà thờ giáo xứ, phải được cung hiến cách trọng thể.

Điều 1218

Mỗi nhà thờ phải có một tước hiệu riêng và một khi đã được cung hiến thì không được thay đổi tước hiệu này nữa.

Điều 1219

Trong một nhà thờ đã được cung hiến hay đã được làm phép một cách hợp pháp, thì có thể cử hành tất cả mọi  hành vi thờ phượng Thiên Chúa, miễn là vẫn tôn trọng các quyền lợi của giáo xứ.

Điều 1220

#1. Việc chăm lo gìn giữ các nhà thờ sạch sẽ và mỹ quan, xứng đáng là nhà Thiên Chúa, và loại bỏ những gì  không thích hợp với sự thánh thiện của nhà thờ thuộc về tất cả những người có trách nhiệm coi sóc nhà thờ.

#2.Để gìn giữ những đồ thánh quý giá, phải thường xuyên quan tân đến việc bảo quản và phải sử dụng những  phương tiện  an toàn thích hợp.

Điều 1221

Phải được tự do và được miễn phí vào nhà thờ trong lúc cử hành các nghi lễ thánh.

Điều 1222

#1. Nếu một nhà thồ không thể sử dụng vào việc thờ phượng Thiên Chúa bằng bất cứ cách nào và cũng không thể tu bổ được nữa, Giám Mục giáo phận có thể sử dụng nhà thờ đó vào việc phàm tục tương hợp.

#2. Nơi nào có những lý do nghiêm trọng khác khuyên không nên sử dụng một nhà thờ nào đó, vào việc thờ phượng Thiên Chúa nữa, thì Giám Mục giáo phận sau khi đã tham khảo ý kiến của hội đồng linh mục, có thể cho sử dụng vào nhà thờ ấy vào một việc phàm tục tương hợp, với sự đồng ý của những người yêu sách quyền lợi của họ trên nhà thờ ấy cách hợp lệ, và miễn là không làm thiệt hại đến lợi ích  của các linh hồn.

 CHƯƠNG 2: NHÀ NGUYỆN VÀ NHÀ NGUYỆN TƯ

Điều 1223

Nhà nguyện được hiểu là một nơi Đấng Bản Quyền ban phép dành vào việc thờ phượng Thiên Chúa, vì lợi ích của một cộng đoàn hay của nhóm tín hữu quy tụ tại đó, các tín hữu khác cũng có thể vào nhà nguyện ấy với sự chấp thuận của Bề Trên có thẩm quyền.

Điều 1224

#1. Đấng Bản Quyền chỉ nên ban phép cần thiết  để thiết lập một nhà nguyện, sau khi đã đích thân hay nhờ một người khác đến tham quan nơi dành làm nhà nguyện và đã thấy nơi ấy được bố trí thích hợp.

#2. Một khi đã được phép rồi, nhà nguyện không thể được sử dụng vào việc phàm tục, nếu không có phép của chính Đấng Bản Quyền ấy.

Điều 1225

Trong ca1cnha2 nguyện đã được thiết lập cách hợp pháp, có thể cử hành tất cả mọi nghi lễ thánh, trừ khi nghi lễ mà luật hoặc các quy định của Đấng Bản Quyềnđịa phương đã loại bỏ, hoặc nghịch với  những quy tắc phụng vụ.

Điều1226

Nhà nguyện tư được hiểu là một nơi đã được Đấng Bản Quyền địa phương ban phép dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa, vì lợi ích của một hay nhiều thể nhân.

Điều 1227

Các Giám Mục có thể thiết lập cho mình một nhà nguyện tư, nhà nguyện tư này có cùng một quyền lợi của một nhà nguyện.

Điều 1228

Miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1227, để cử hành Thánh Lễ và các nghi lễ thánh trong một nhà nguyện tư nào đó, thì buộc phải có phép của Đấng Bản Quyền địa phương.

Điều 1129

Nên làm phép nhà nguyện và nhà nguyện tư theo nghi lễ được quy định  trong các sách phụng vụ, nhưng các nhà nguyện này phải được dành riêng trong việc thờ phượng Thiên Chúa mà thôi, và không được sử dụng vào bất cứ việc gì trong nhà.

CHƯƠNG 3: ĐỀN THÁNH

Điều 1230

Đền thánh được hiểu là một nhà hay một nơi thánh nào khác mà nhiều tín hữu đi hành hương tới đó vì lòng đạo đức đặc biệt, với họ chấp thuận của Đấng Bản Quyền địa phương.

Điều 1231

Để một đền thánh có thể được gọi là đền thánh quốc gia, thì phải được Hội Đồng Giám Mục phê chuẩn; để có thể được gọi là đền thánh quốc tế, thì buộc phải có sự phê chuẩn của Tòa Thánh.

Điều1232

#1.Đấng Bản Quyền địa phương có thẩm quyền phê chuẩn các quy chế đền thánh giáo phận; Hội Đồng Giám Mục có thẩm quyền phê chuẩn các quy chế đền thánh quốc gia và chỉ một mình Tòa Thánh mới có thẩm quyền phê chuẩn các quy chế đền thánh quốc tế.

#2. Các quy chế phải đặc biệt xác định mục đích, quyền bính của cha quản nhiệm, quyền sở hữu và việc quản trị tài sản.

Điều 1233

Có thể ban cho các đền thánh một số đặc ân mỗi khi thấy hoàn cảnh địa phương, số người hành hương đông đảo và nhất là lợi ích của các tín hữu đòi hỏi điều đó.

Điều 1234

#1. Tại các đềnhánh, phải cung cấp các phương tiện cứu độ cho các tín hữu một cách dồi dào, bằng cách nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, cổ vũ cách thích hợp đời sống phụng vụ, đặc biệt qua việc cử hành bí tích Thánh Thể và bí tích Sám Hối, cũng như bằng cách duy trì việc thực hành lòng sùng đạo bình dân đã được chuẩn nhận.

#2. Những kỷ vật dâng cúng có giá trị nghệ thuật bình dân và đạo đức được trưng bày trong các đền thánh hoặc trong các nơi kề cận phải được bảo tồn và gìn giữ an toàn.

CHƯƠNG 4: BÀN THỜ

Điều 1235

#1. Bàn thờ, tức là chiếc bàn mà Hiến Tế Thánh Thể được cử hành trên đó, được coi là cố định, nếu được xây gắn liền với nền nhà, đến nỗi không thể di chuyển được; được coi là di động, nếu có thể di chuyển được.

#2. Trong tất cả mọi nhà thờ, nên có một bàn thờ cố định; nhưng trong các nơi khác dành cho việc cử hành các nghi lễ thánh, bàn thờ  có thể cố định hay di động.

Điều 1236

#1. Theo truyền thống thực tiễn của Giáo Hội, mặt bàn thờ cố định phải bằng đá,và còn phải  bằng  nguyên một phiến đá tự nhiên; tuy nhiên, cũng có thể chấp nhận  cho dùng một vật liệu khác xứng đáng và rắn chắc, theo sự thẩm định của Hội Đồng Giám Mục. Còn phần chống đỡ hay chân bàn thờ có thể được làm  bằng bất cứ vật liệu nào.

#2. Bàn thờ di động có thể được làm bất cứ vật liệu rắn chắc nào hợp với việc sử dụng trong phụng vụ.

Điều 1237

#1. Các bàn thờ cố địnhphải được cung hiến, còn bàn thờ di độngphải được cung hiến hoặcđược làm phép  theo nghi thức đã được quy định trong các sách phụng vụ.

#2. Phải giữ gìn truyền thống cổ kính đặt các thánh tích của các thánh tử đạo hay các thánh khác dưới bàn thờ cố định, theo các quy tắc được quy định trong các sách phụng vụ.

Điều 1238

#1. Một bàn thờ mất tính cách đã được cung hiến hay đãđược làm phép chiếu theo quy tắc của điều 1212.

#2. Do sự kiện cho sử dụng nhà thơ øhay một nơi thánh khác vào việc phàm tục, các bàn thờ cố định hay di động không mất tính  cách đã được cung hiến, và cũng không mất tính cách đã được làm phép .

Điều 1239

#1. Cả bàn  thờ cố định lẫn bàn thờ di động  chỉ được dành rie6ngcho việc thờ phượng Thiên Chúa, tuyệt đối không được sử dụng vào bất cứ việc phàm tục nào.

#2.Không được chôn cất thi hài dưới bàn thờ, nếu co thì không được phép cử hành Thánh Lễ trên bàn thờ ấy.

CHƯƠNG 5: NGHĨA TRANG

Điều 1240

#1. Phải có những nghĩa trang riêng của Giáo Hội ở nào có thể, hay ít ra phải có những khu vực dành riêng cho các tín hữu đã qua đời trong những trang dân sự, và những khu vực này phải được làm phép đúng nghi thức.

#2. Nếu không thể có các nghĩa trang riêng, thì phải làm phép các phần mộ từng lần một đúng nghi  thức.

Điều 1241

#1. Các giáo xứ và các  hội dòng có thể có nghĩa trang riêng.

#2.Các pháp nhân khác hay các gia đình cũng có thể có nghĩa trang hay hầm mộ riêng, nghĩa trang và hầm mộ này phải được làm phép, tùy theo sự thẩm định của Đấng Bản Quyền  địa phương.

Điều 1242

Không được chôn cất các thi hài trong các nhà thờ, trừ khi  thi hài của Đức Giáo Hoàng Rôma, của các Hồng Y và của các Giám Mục giáo phận, ngay cả nguyên Giám Mục, thì phải được chôn cất trong nhà thờ của mình.

Điều 1243

Luật địa phương phải ấn địnhnhững quy tắc thích hợp về kỷ luật phải giữ trong các nghĩa trang, nhất là về  những gì liên quan tới việc duy trì và bảo vệ tính cách thiêng liêng của những người ấy.

ĐỀ MỤC 2: THỜI GIAN THÁNH

Điều 1244

#1.Việc thiết lập, chuyển dời và hủy bỏ những ngày lễ cũng như các ngày sám hối chung cho Giáo Hội  toàn cầu thuộc về một mình quyền bính  tối cao của Giáo Hội; miễn  là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1246 #2.

#2. Các Giám Mục giáo phận có thể ấn định các ngày lễ hoặc các ngày sám hối riêng cho giáo phận hay cho một vài nơi trong giáo phận, nhưng chỉ từng lần mà thôi.

Điều 1245

Miễn là vẫn giữ nguyên quyền của Giám Mục giáo phận được nói đến ở điều 87, vì một lý do chính đáng, và theo quy định của Giám Mục giáo phận, cha sở, trong từng trường hợp, có thể miễn chuẩn nghĩa vụ phải giữ một ngày lễ hay một ngày sám hối hoặc thay thế nghĩa vụ ấy gằng một việc đạo đức khác; Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ cũng có những quyền ấy đối với những người thuộc quyền mình và những người khác đêm ngày cư ngụ trong nhà mình, nếu hội dòng và tu đoàn thuộc luật giáo hoàng.

CHƯƠNG 1: CÁC NGÀY LỄ

Điều 1246

#1. Theo truyền thống tông đồ, mầu nhiệm  Vượt Qua đuộc cử hành trong ngày Chúa Nhật, ngày đó phải được giữ như là ngày lễ buộc chính yếu  trong Giáo Hội toàn cầu. Và cũng phải giữ như là ngày lễ buộc chính yếu  những ngày lễ Sinh Nhật Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, lễ Hiển  Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình và Máu Rất Thánh Đức Kitô, lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô  Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, lễ Thánh Giuse, lễ hai thánh tông  đồ Phêrô và Phao lô, và sau cùng là lễ của các thánh.

#2.Tuy nhiên, với sự phê chuẩn trước Tòa Thánh, Hội Đồng Giám Mục có thể hủy bỏ hoặc chuyển một số lễ buộc sang ngày lễ Chúa Nhật.

Điều 1247

Các tín hữu buộc phải tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác; hơn nữa, còn phải kiêng làm việc xác và những công việc gây trở ngại cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho niềm  vui  riêng trong ngày của Chúa, hoặc cho việc nghỉ  ngơi cần thiết của tinh thần và thể xác.

Điều 1248

#1.Người nào tham dự Thánh Lễ được  cử hành theo nghi thức Công giáo trong  chính ngày lễ hoặc chiều ngày áp lễ ở bất cứ nơi nào, thì đã giữ trọng luật buộc phải tham dự  Thánh Lễ.

#2. Nếu không thể tham dự  việc cử hành Thánh Lễ vì thiếu thừa tác viên có chức thánh hay vì bất cứ lý do nghiêm trọng nào khác, tha thiết khuyên nhủ các tín hữu nên tham dự phụng vụ Lời Chúa được cử hành theo những quy định của Giám Mục giáo phận trong nhà thờ giáo xứ, nếu có, hoặc tại một nơi thánh nào khác, hoặc nên cầu nguyện trong một thời gian thích hợp, cách riêng tư hoặc với gia đình, hoặc với các nhóm gia đình, tùy dịp.

 


Trở lại      In      Số lần xem: 4436
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  12
 Hôm nay:  1621
 Hôm qua:  2507
 Tuần trước:  20555
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12325928

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn